Những mảnh đời đen trắng ( cuối)- Chương 7, 8, 9, 10

Tiểu thuyết
Chương Bảy

Đại úy Thìn trở về vào lúc trời tối mịt. Tình hình chiến sự ngày hôm đó đã buộc ông không thể về sớm hơn dù vào khoảng bốn giờ chiều, ông đã biết thím Hoa bỏ nhà ra đi.

Sau đợt máy bay ném bom vào thị trấn, không khí bình an đã trở lại như cũ. Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo tám chiếc máy bay bị ta bắn rơi. Anh hùng Nguyễn Viết Xuân trước lúc hy sinh đã để lại cho cuộc chiến tranh một khẩu hiệu nổi tiếng: "Nhằm thẳng quân thù mà bắn!". Trung đoàn pháo của Đại úy tiêu tốn hơn một trăm hòm đạn lớn chỉ được trên công nhận bắn được một chiếc chiếc bị thương từ hướng 34. Tất nhiên Đài Tiếng nói Việt Nam không hơi sức đâu mà thông báo loại máy bay bị thương. Biết để mà vui với nhau, an ủi với nhau, trong trung đoàn vậy thôi. Đại úy rất bực bội vì chuyện này. Ông đã làm một "tăng" dài trước các sĩ quan thuộc quyền ông trong giờ giao ban hàng ngày. Lệ thường giờ giao ban chỉ kéo dài một tiếng rưỡi, từ mười lăm giờ đến mười sáu giờ ba mươi, nhưng Đại úy đã nói hết hai giờ, các sĩ quan phân bua mất hai giờ, sĩ quan trực chiến thông báo tình hình chiến sự mất nửa giờ, Chính ủy Trung đoàn đọc thư khen các tiểu đoàn mất mười phút, đọc "Quyết tâm thư" gửi lên cấp trên mất bốn mươi lăm phút, nên mặc dù giờ giao ban được tiến hành sớm hơn hai giờ, mãi đến mười tám giờ bốn mươi Đại úy mới giao quyền trực chỉ huy cho trung đoàn phó - tham mưu trưởng, lên xe đạp về nhà được.


Đại úy chưa về nhà vội, ông đạp xe một mạch đến nhà Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh. Đại úy bước vào nhà Bí thư khi ông chuẩn bị cắp cặp đi họp. Thấy Đại úy mặt mày hầm hầm vừa bắt tay vừa nói: "Tôi cần nói chuyện với anh. Xong, tôi đi ngay". Bí thư huyện ủy quyết định bỏ họp tiếp chuyện với Đại úy. Ông thừa biết đây là chuyện nghiêm trọng.
- Anh cứ bình tĩnh anh ạ, có thể họ chỉ trốn đâu đó vài ngày. - Ông ân cần rót nước mời Đại úy, lựa lời an ủi.
- Nếu xét riêng cá nhân tôi. - Đại úy nói: - Thì cái việc họ bỏ trốn hai ngày hay hai trăm ngày đối với tôi chẳng có nghĩa lý gì hết. Tôi chỉ thấy xấu hổ khi phải mang tiếng là chồng của một con đĩ, là anh của một thằng phản động. Nếu chúng trở lại thì đừng hòng thoát khỏi tay tôi. Anh đừng nhầm là tôi đau khổ hay nuối tiếc.
Ông Thanh nghe Đại úy nói với thái độ rất nghiêm túc, thỉnh thoảng gật gật, sẵn sàng nghe Đại úy tiếp tục. Đại úy dựa hẳn vào thành ghế, dằn từng tiếng:
- Tôi đến đây không phải để than thở với anh về hoàn cảnh chó đẻ của tôi. Xin anh nhớ cho và đừng có an ủi.
- Thì tôi phỏng đoán vậy chớ đối với anh, an ủi cũng bằng thừa. - Ông Thanh chen ngang, giọng khá mềm mỏng.
Đại úy gật đầu nhất trí, và tiếp tục:
- Tôi đến đây để đặt lại vấn đề với anh rằng chính anh, chứ không phải tôi, đã phạm một sai lầm nghiêm trọng.
Đại úy ngừng lời, đưa mắt thăm dò ông Thanh. Vẫn khá bình thản, ông Thanh rót thêm nước, ngước lên nhìn Đại úy: "Anh cứ tiếp đi."
- Cách đây ba tháng. - Đại úy hạ giọng, nói chậm rãi nhưng dễ nhận thấy đầu ông bắt đầu sôi lên vì tức giận: - Tôi đã đặt vấn đề với anh, không phải một mà nhiều lần, rằng chiến tranh có thể bùng nổ trên nửa nước còn lại, khi đó bọn phản động, bọn tư sản ở huyện này rất dễ ngóc đầu dậy để phản công chúng ta. Riêng trong huyện này có hai trăm mười tám đối tượng đáng nghi ngờ...
- Về quan điểm chung, tôi đã nhất trí với anh...
- Khoan, anh để tôi nói tiếp. Trong thời bình có thể quản lý được họ nhờ vào lực lượng chuyên chính vô sản vững chắc của chúng ta. Nhưng trong thời chiến, tất cả phải đương đầu với kẻ địch, lấy đâu ra một lực lượng đủ mạnh để quản lý hai trăm mười tám đối tượng đó. Tôi đã đề nghị anh có kế hoạch gô cổ từng nhóm một, giải quyết dứt điểm trước khi có chiến tranh. Cách đây một tháng tôi lại đặt vấn đề với anh một lần nữa. Tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề này nhưng anh đâu có nghe. Việc để lọt lưới thằng Tư và vợ tôi là một dẫn chứng điển hình về sai lầm của anh.
Ông Thanh điềm tĩnh trả lời:
- Nhưng hai trăm mười tám đối tượng mà anh lập danh sách đưa cho tôi, bảo tôi ký duyệt, liệu có phải tất cả đều đang có âm mưu chống lại Chủ nghĩa Xã hội hay không? Trên thực tế họ vẫn sinh sống, làm ăn lương thiện.
- Lương thiện là vỏ bọc, vỏ bọc anh ạ. - Đại úy khẳng định: - Tôi nói cho anh biết: họ là những người đang chờ cơ hội lật đổ chế độ ta.
- Anh nói khó thuyết phục quá. - Ông Thanh kêu lên.
- Sao lại khó thuyết phục? - Đại úy ngạc nhiên: - Anh không biết họ thuộc tầng lớp nào, giai cấp nào à? Anh không biết họ đã lẩn trốn các buổi lao động Xã hội Chủ nghĩa như chạch à? Anh không biết trên cái chợ thị trấn, họ là những kẻ làm chủ thị trường, mà chợ là môi trường cho Chủ nghĩa Tư bản phát triển, hay sao? Tôi lạ cho cái tình ủy mị của anh quá. Trên thực tế, do tính ủy mị của mình, anh đã có phần buông lỏng công cụ chuyên chính vô sản.
"Kết luận hồ đồ!" - Ông Thanh nghĩ bụng: - "Mà anh là cái gì mà cứ xía vào công việc của chúng tôi." - Ông Thanh lại nghĩ bụng: - "Anh quá lơ mơ về Chủ nghĩa Xã hội, thế mà lúc nào cũng đòi bảo vệ nó." - Ông Thanh tiếp tục nghĩ trong bụng. Đầu ông bốc máu. Ông muốn quát to: "Xin anh để yên cho chúng tôi làm việc!" Ông nén giận, lặng lẽ cho thêm chè, rót nước vào ấm. Ông làm một cách chậm chạp, cố tình kéo dài thời gian nghĩ ngợi. Bắt gặp đôi mắt đỏ rực của Đại úy đang dọi thẳng vào mình bỗng nhiên ông rùng mình nhớ đến hai chữ "tùy anh" của Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy.
Ông thở dài, trả lời giọng yếu ớt:
- Phải có bằng chứng anh ạ. Bắt ai cũng phải có bằng chứng, chứ không vu khống họ được. Ví dụ như Họa sĩ Tư chẳng hạn, ba lần anh giục tôi bắt nhưng bằng chứng đâu?
- Cha! Cha! Cha! - Đại úy kinh ngạc kêu to: - Sáu mươi tư bức tranh đồi trụy của nó - Một! Những lần nó chửi anh, chửi tôi, chửi xã hội mà chúng ta đang đổ mồ hôi sôi nước mắt xây dựng - Hai! Chín lần nó từ chối không vẽ tranh cổ động cho ta - Ba! Và đây nữa. - Đại úy rút trong túi tờ giấy tờ-rô-ki gấp tư, mở xòe ra. Đấy là bức tranh "Trăng thượng huyền". - Đây là bức tranh nó vẽ vợ tôi và nó chuẩn bị tằng tịu trên mặt trăng. Mặt trăng là cái nơi Liên Xô nghiên cứu khoa học đặng áp dụng những thành tịu mới nhất cho hạnh phúc nhân loại thì chúng đòi nhảy lên đó tằng tịu. Bôi bác Chủ nghĩa Xã hội đến thế là cùng. Bằng chứng cả khối, vậy mà anh nhìn kiểu nào lại không thấy?
Ông Thanh chợt nở một nụ cười ngớ ngẩn.
- Gớm! Anh tấn công tôi dữ quá!
- Không phải tôi tấn công! - Đại úy vẫn cao giọng: - Mà tôi kiến nghị!
- Vâng! Vâng! Thế thì anh kiến nghị! - Rõ ràng ông Thanh cố tình xoa dịu.
- Tôi kiến nghị với anh: Lập tức cho công an làm lệnh truy nã hai tên phản động Tư và Hoa. Anh có làm không thì anh nói để tôi còn quay về đơn vị?
Ông Thanh lặng đi một lát. Bỗng ông ôm ngực ho rũ rượi. Ho mãi. Vừa ho vừa nói vừa thở:
- Tôi... sẽ... cho... làm... lệnh... truy...
Đại úy Thìn bắt tay ông xiết chặt: "Thế anh nhé" và bước ra khỏi nhà, đạp xe hùng hục trở về đơn vị. Ông không đủ thời gian để ghé qua nhà nữa, hàng đống công việc như núi đang chờ ông ở đơn vị. Đến ngã tư, vừa rẽ vào đường xuống bến phà thì Thùy Linh chạy vụt ra, dang hai tay hét lạc cả giọng:
- Ba!
Đại úy phanh kít lại dạng hai chân chống đất, hỏi:
- Thùy Linh à?
Thùy Linh lao tới, gục đầu vào ngực Đại úy, nức nở:
- Ba ơi, mẹ trốn rồi! Ba ơi, mẹ trốn rồi! Về nhà nhanh lên, nhanh lên ba ơi! Không kịp...
Đại úy lúng túng một vài giây rồi trấn tĩnh lại. Ông gỡ tay Thùy Linh ra khỏi áo mình, nói nhẹ nhàng nhưng dứt khoát:
- Ba biết rồi. Vấn đề này giải quyết sau. Bây giờ ba phải về đơn vị. Ba bận quá!...
Thùy Linh sững người, cô ngơ ngác nhìn Đại úy. Nom thấy Đại úy chuẩn bị đạp xe đi, cô gầm lên:
- Không! Ba không đi đâu hết! Không đi-i-i.!..
Cô rũ xuống đất, quằn quại giữa đường đêm. Hai bánh xe Đại úy quay vo vo. Đại úy gò lưng đạp. Được một quãng ông ngoái cổ lại, tặc lưỡi: "Tội nghiệp con bé!". Ngực ông bỗng nhói lên nỗi xót xa cho số phận hẩm hiu của mình. Nhưng nỗi xót xa ấy cũng chỉ nhói lên một giây thôi, bởi vì ông nghĩ "Ông không được phép mềm yếu dù bất kỳ hoàn cảnh nào!" Ông cắm cổ đạp, hai bánh xe quay vo vo...

                                         *

                                     *             *



Hôm sau lệnh truy nã Họa sĩ Tư và thím Hoa dán chín nơi trong thị trấn. Mới tờ mờ sáng đã thấy công an mặc thường phục cầm một cuộn dày các thông báo và lệnh truy nã (kèm theo ảnh) vội vàng dán chồng lên các biển quảng cáo của đoàn ca kịch Nhật Lệ diễn vở Thoại Khanh Châu Tuấn. Bác Cả Rí là người phát hiện đầu tiên. Các sự việc diễn ra vào tờ mờ sáng, bao giờ bác cũng là người phát hiện đầu tiên, vì bác phải dậy sớm đi thăm các bẫy lươn của bác. Bác chạy vùn vụt tới quán thịt chó Cule đập cửa thình thình.
- Cái gì thế? - Cule cầm dao phay băm thịt chó nhào ra mở cửa.
- Kinh lắm! Kinh lắm! - Bác Cả Rí thở hổn hển.
- Kinh là làm sao? - Cule trợn mắt hỏi.
Bác Cả Rí cầm tay Cule lôi đi đến chỗ gần nhất có dán lệnh truy nã... Cule giật mình, rơi dao.
Một lát, trấn tĩnh trở lại, Cule ôm Bác Cả Rí mếu máo:
- Bác Cả Rí ơi, chết em rồi! Chết em rồi!
- Chết là làm sao?
- Chết... tức là em cũng bị truy nã đến nơi... em là đồ sát sinh tức là sát... chó thì em sống sao nổi. Ai cho em sống?
Bác Cả Rí bịt miệng Cule, nghiêm mặt:
- Chuyện nghiêm túc mà bác cứ đùa. Tôi buồn quá. Có ai ngờ chú Tư và thím Hoa yêu nhau. Yêu nhau cũng đã kinh lắm rồi, lại còn rủ nhau bỏ làng xóm mà chạy. Bỏ chạy cũng đã ghê gớm lắm rồi, lại còn là Việt gian bán nước, bị truy nã thì khủng khiếp làm sao. Tôi nghĩ không ra, thưa bác.
Cule cầm cây dao phay chọc thẳng lên trời, nói:
- Đất lành chim đậu. Đất xấu chim bay. Có gì mà bác nghĩ không ra?
- Ờ nhỉ! - Bác Cả Rí thở dài, cầm xâu lươn đi thẳng, không thèm chào Cule một tiếng. Gặp ai bác cũng oang oang:
- Việt gian bán nước! Việt gian bán nước! Ra ngoài đường cái mà coi! Ối giời ơi, tôi sợ quá...
Cule đứng nhìn bác Cả Rí lủi thủi đi, bất giác cười, buột miệng nói trống không:
- Trời đã sinh ra mi sao còn sinh ra hắn.
Không ai nghe Cule nói, nếu có nghe cũng chẳng hiểu Cule định nói gì. Chỉ mình Cule hiểu lấy. Cule chợt cười, rân rấn nước mắt:
- "Đời là tiệc, tiệc tàn ly cốc đổ!"... Thế đấy! Thế đấy! - Cule bước vào quán dở cuốn sổ nợ ra. Sổ nợ ghi rành rành "Ngày 4/8/1964 - Họa sĩ Tư hai đĩa dồi chó, nửa lít rượu - hai đồng một hào". Đây là bữa nhậu cuối cùng của Họa sĩ. "Vĩnh biệt nhé, chú mày!" - Cule thầm nghĩ. Ông lẩm nhẩm cộng số tiền nợ của Họa sĩ: tám mươi bốn đồng sáu hào. "Vĩnh biệt nhé, chú mày!" - Cule đánh dấu nhân bên cạnh số tiền nợ được đóng khung cẩn thận. Vẫn thấy không yên tâm, ông ghi một dòng chữ thật to: "Họa sĩ Tư hết nợ". Ông gấp sổ lại, ngước lên, nhìn ra bờ sông. Túp lều lá mía của Họa sĩ còn đó, cô đơn đứng giữa lưng chừng con đê. Nước mắt Cule chợt túa ra, chảy vòng vèo trên má. "Vĩnh biệt nhé, chú mày! Sống trên đời kiếm miếng dồi chó, xuống âm phủ biết có hay không!"...

Chợt Cule thấy bóng của Thùy Linh nổi rõ trên mặt đê. Cô đứng im, nhìn sang phía bờ bên kia. Rất lâu cô chạy về nhà... Cô chạy rất nhanh, gần như bay trên đường. Tóc xõa ra, bồng lên, bay bay bay. "Tội nghiệp con bé!", Cule chép miệng thở dài, mắt vẫn không rời Thùy Linh. Cô đang chạy bỗng sững lại, chết đứng trước tờ lệnh truy nã... Cô bước lùi, bước lùi... hét lên một tiếng gì đó và ôm mặt chạy tơi bời trên đường cái quan. Nước mắt Cule chảy ròng ròng...

Thùy Linh chạy về nhà đã thấy Hoàng ngồi thu lu trên chõng tre. Họ nhìn nhau. Không ai nói với ai. Thùy Linh đổ sụp vào ngực Hoàng, khóc rưng rức. Hoàng dìu Thùy Linh vào nhà, im lặng để cho những giọt nước mắt tủi nhục của cô thấm qua áo mình. Anh quyết định ở bên cô suốt ngày.

Họ nhìn nhau, buồn rười rượi. Thảng hoặc có nói chuyện nhưng rất nhạt, chẳng đâu vào đâu. Ai cũng cố lảng đi cái chuyện đau đớn vừa xảy ra, đẩy đưa những chuyện không đâu, rốt cuộc lại bị hút vào cái chuyện đau đớn vừa xảy ra, rồi sực nhớ là mình đã sa đà, lại đẩy đưa những chuyện không đâu. Và im lặng. Có lúc cảm giác hai người đang ngồi dưới nấm mồ, rờn rợn. Không còn hy vọng họ sẽ trở về nữa. Họ đã ra đi, đi hẳn. Thím Hoa không mang theo một thứ gì, kể cả những tư trang cần thiết. Hình như cuộc ra đi được họ quyết định chớp nhoáng, trong những giây phút éo le nhất, và đi, vội vội vàng vàng. Họa sĩ vứt toàn bộ gia sản của mình, không thèm gài cửa. Cứ thế là họ đi, đơn giản như đi xem cải lương, hát bội vậy. Căn nhà Họa sĩ Tư đã được công an khóa lại, niêm yết cẩn thận sau khi đã lục soát, tìm dò gần bốn tiếng đồng hồ. Đi vậy mà đi à? Lấy gì mà ăn? Áo quần đâu mà thay? Dễ thường thím Hoa dứt tình với Thùy Linh chóng vánh làm vậy? Thím thương Thùy Linh hết mực, thương hơn bản thân thím. Từ ngày Đại úy Thìn trở về và ra những điều lệnh khắc nghiệt quy định cho mẹ con thím thì hết thảy tình cảm của thím đều dồn hết cho Thùy Linh. Ngoài tình mẹ con thắm thiết, thím còn coi Thùy Linh như bạn. Hầu như thím chẳng còn ai mà tâm sự, ngoài quan hệ vụng trộm với Họa sĩ Tư. May còn có Thùy Linh để thím khóc, cười, rủ rỉ đủ chuyện trên đời cùng với cô. Lắm lúc chỉ vớ phải những may mắn bé nhỏ, hai người cũng ríu rít được một ngày hơn. Không có thì bịa chuyện để vui, kể cả những niềm vui không hoàn toàn thuộc về mình họ cũng reo lên như được của. Khi đã hết sạch không còn gì gọi là vui đến với họ nữa thì họ vui với những ký ức xa vời. Cái thời thím bán bánh đúc chẳng hạn. Thím vừa chạy vừa rao, còn Thùy Linh vừa chạy vừa ngủ. Nhiều lần bánh ế, hai mẹ con "liên hoan" cả ngày không hết. Chỉ vậy thôi là đủ cười rồi, ôm bụng mà cười, cù vào nách nhau để cười được lâu hơn. Tình mẹ con, tình bầu bạn thắm thiết làm vậy lẽ nào thím dứt được mà đi. Còn nếu đi thật, đi không thèm ngoái lại, thì ít ra thím cũng nhắn gửi được một lời với Thùy Linh. Vì những lý do đó, chiều hôm qua Hoàng và Thùy Linh còn đinh ninh thế nào thím Hoa cũng trở về. Đến tối thì thấp thỏm, sợ hãi. Và sáng nay khi chín tờ "lệnh truy nã" được dán lên ở chín nơi trong thị trấn thì cả hai đều rũ người cay đắng nhận ra rằng: thế là vĩnh viễn họ không trở về nữa, không cách gì có thể trở về, trừ trường hợp bị giải về như những tên tội phạm.
Bất thần Thùy Linh vùng dậy chạy ào ra khóa cổng. Xong, cô lui vào khóa trái cửa chính lại, ngoặc chặt các cửa sổ. Cô lủi vào buồng riêng, vùi vào tấm chăn, toàn thân mềm nhũn. Hoàng vào theo, ngồi bó gối bên cạnh Thùy Linh, khẽ thở dài:
- Em đừng lo, người ta chẳng làm gì thím đâu.
- Anh nói sao?
- Người ta chẳng làm gì thím đâu, anh biết.
Thùy Linh lật nghiêng người, buồn rầu nhìn Hoàng:
- Người ta là ai?
Hoàng cúi mặt, im lặng. Thùy Linh bỗng òa khóc, khóc to, khóc rất to khiến Hoàng hoảng lên, nói líu lưỡi:
- Ba anh không muốn làm lệnh truy nã, ông ấy bị ép thôi.
Đột nhiên Thùy Linh nín bặt, vùng dậy hỏi, giọng lạnh tanh:
- Ai ép?
Hoàng lại cúi mặt, im lặng. Thùy Linh chồm người về phía Hoàng, túm ngực Hoàng day day, hét vang lên:
- Ai ép? Ai ép? Anh nói đi! Nói đi chứ! Ai ép...
Hoàng kiên nhẫn chịu đựng, nhẹ nhàng gỡ tay Thùy Linh. Cô không chịu, càng lay Hoàng dữ hơn:
- Nói đi! Anh phải nói! Ai ép? Ai ép?
Hoàng vùng đứng dậy, nhìn thẳng vào mắt Thùy Linh, gầm lên:
- Ba em chứ ai! Chính ba em đã ép ba anh phải làm lệnh truy nã.
Thùy Linh sững sờ, cô đưa tay cố tìm một vật gì đó để nắm, tìm mãi...
- Anh nói sao? Anh vừa nói cái gì nhỉ?
Hoàng không trả lời, nằm vật xuống.
- Ba em phải không? Anh vừa nói là ba em ép ba anh phải không?
Hoàng vẫn im lặng. Anh thấy cổ họng mình nghẹn đắng. Anh muốn khóc òa như ngày xưa, không, như hai năm trước đây khi cả anh lẫn Thùy Linh vẫn còn là những đứa bé.
Thùy Linh ôm đầu nhìn Hoàng, mặt dại đi...
- Giá chúng ta là chim anh nhỉ?
- Em bảo sao? - Hoàng ngước lên, ngơ ngác.
Thùy Linh lắc đầu, không nói. Cô lẳng lặng xuống đất, đi thơ thẩn quanh nhà và đứng lại trước cửa, thổn thức:
- Em vừa thấy mẹ em đứng cuốn tóc chỗ này. Buổi chiều mẹ em kêu đau lưng nhờ em đấm lưng hộ. Cái áo của em, bà đã may xong đâu... Bà đứng chỗ này, không phải, chỗ này... đứng chỗ này để mặc áo khoác, em nhớ chứ...
- Thôi, đừng nhắc nữa, thêm buồn. - Hoàng rầu rĩ nói.
- Có lẽ mẹ em sẽ lên rừng. Nhiều lần bà nói với em là bà thích rừng hơn biển.
- Anh cũng nghĩ vậy.
- Giá chúng ta là chim anh nhỉ? - Thùy Linh chợt reo lên: - Chúng ta sẽ bay. Bay, bay, bay... như thế này này. Bay mãi. Vừa bay vừa gọi. Em thì gọi: "Mẹ ơi! Mẹ ơi!". Anh thì gọi: "Thím ơi! Thím ơi!"... vang cả núi rừng.

Chiếc loa kim gắn trên vách trái, sâu trong buồng của vợ chồng Đại úy bỗng "khọt khẹt, rột roẹt". Mấy phút sau giọng nữ phát thanh viên đài truyền thanh huyện bình thản thông báo:
- "Thông báo của công an huyện...
Hoàng vụt dậy. Chạy gần đến loa. Thùy Linh bước giật lùi, tựa lưng vào cột nhà, mặt trắng bệch.
- ... Công an huyện xin thông báo: vào hồi 9 giờ 30 phút ngày 5/3/1964, hai tên Nguyễn Tư và Bùi Thị Hoa đã trốn khỏi thị trấn Linh Giang sau nhiều hoạt động chống lại công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở huyện ta của chúng bị bại lộ...
- Tắt đài! - Thùy Linh hét lạc giọng.
Hoàng nhảy đại lên giường giật phăng dây điện. Tiếng loa im bặt. Hoàng lau mồ hôi trán bước ra. Thùy Linh ôm mặt run lên bần bật, miệng lắp bắp muốn nói một điều gì đó. Hoàng đến, đỡ lấy bờ vai Thùy Linh dìu vào giường. Đi vài bước, Thùy Linh vùng té chạy, hét vang:
- Em không muốn người ta bắt được mẹ em! Em không muốn người ta bắt được mẹ em!
- Thùy Linh!
Hoàng nhào tới ôm chặt Thùy Linh, bế xốc cô lên giường. Thùy Linh dẫy mạnh. Hoàng ra sức ấn Thùy Linh xuống, nằm đè lên mình cô. Thùy Linh không chịu, cô đạp Hoàng một cái cực mạnh, vùng chạy ra vườn.
- Mẹ ơi trốn đi! Mẹ ơi trốn đi-i-i....
- Thùy Linh!
- Trốn đi mẹ ơi! Trốn đi-i-i....
Hoàng ôm quàng lấy eo Thùy Linh, ghì sát vào gốc ổi. Thùy Linh thở hổn hển, mồ hôi ướt dầm dề. Lát sau, như một quả bóng xì hơi cô rủ xuống tay Hoàng nấc khẽ. Hoàng vuốt nhẹ tóc mai Thùy Linh, lau mồ hôi trán cho cô... Thùy Linh dần tỉnh lại, cô âu yếm nhìn Hoàng, từ từ quỳ xuống trước mặt anh, nghẹn ngào:
- Đừng ghét em. Đừng vì thế mà ghét em, anh nghe... Anh hôn em đi, vào chỗ này này...
Thùy Linh chỉ vào đôi mắt cô, ròng ròng những giọt nước mắt tủi hờn...

                                         *

                                *            *


Lần đầu tiên Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh nổi nóng với ông Lanh, Chủ tịch huyện. Xưa nay ông Thanh chưa nổi nóng với ai bao giờ, ngay cả khi bực dọc nhất ông vẫn nhẹ nhàng tình cảm, hoặc chí ít cũng nặng nề ở gương mặt chứ không ở giọng nói. Sáng nay ông nổi nóng thật sự, ông Lanh vừa bước vào phòng làm việc của ông đã bị ông đập bàn, chỉ vào mặt, quát:
- Ai cho phép anh ra lệnh truy nã anh Tư, chị Hoa!
Ông Lanh ngớ ra, luống cuống:
- Ủa, người ta báo cho tôi là anh đã nhất trí kia mà.
- Người ta là ai! "Ủy ban" và "Huyện ủy" cách nhau có trăm mét mà anh làm như...
- Khoan đã, anh để tôi báo cáo từ từ...
Ông Lanh dịu giọng. Ông Thanh cũng ghìm lại, nói dịu hơn, bớt nóng nảy gay gắt hơn.
Sự thật vào khoảng bốn giờ sáng, ông Lanh đang ngủ trong phòng làm việc của mình chợt có tiếng điện thoại réo. Dạo này tình hình chiến sự bắt đầu căng thẳng, điện thoại réo vào giờ này ắt là có vấn đề. Ông chồm dậy. "A lô! Ủy ban đây!" - "Ai đấy?" - "Tôi Lanh đây! Ở đâu gọi đấy!" - "Tôi Thìn đây!" - "Anh Thìn hả?" - "Tôi đây! Anh đã biết chuyện thằng Tư và vợ tôi trốn thoát chưa?" - "Có! Có!" - "Vậy Thường vụ huyện ủy đã họp chưa?" - "Họp là sao?" - "Thế anh Thanh chưa báo với anh à?" - "Chưa!" - "Thế này nhé! Đề nghị anh báo với công an làm lệnh truy nã ngay! Hoa và Tư là hai tên phản động chống Đảng!..." - "Cái gì?" - "Hoa và Tư là hai tên chống Đảng. Hồ sơ đã có đủ bên công an huyện. Tối qua tôi có làm việc với anh Thanh. Anh Thanh đã nhất trí làm lệnh truy nã ngay, bọn chúng rất nguy hiểm. Tôi rất đau lòng trước tổn thất của mình nhưng không vì thế mà buông lơi cảnh giác được." - "Vâng." - "Thế anh nhé!". Ông Lanh sững người: - "Quái! Chúng nó mà phản động! Ghê nhỉ?". Ông vào giường nằm, được mươi phút ông lồm cồm bò dậy gọi điện sang công an. Viên hạ sĩ quan trực ngồi ngủ gật, quờ tay cầm ống nghe, vừa nghe vừa ngủ. Bỗng viên hạ sĩ quan giật mình, co cẳng chạy lên phòng trưởng công an huyện. Trưởng công an huyện không kịp mặc quần dài vội chộp lấy ống nghe, "Thường vụ" gặp giờ này ắt là có vấn đề. Quả là có vấn đề thật. Trưởng công an nghe xong, nghiêm mặt nói với viên hạ sĩ quan:
- Anh cho gọi các sĩ quan trực ban và ban chỉ huy vào phòng tôi họp ngay.
Các sĩ quan trực và ban chỉ huy vội vàng đến phòng trưởng công an sau đó bốn phút. Ai cũng hồi hộp, thần kinh căng thẳng. Thủ trưởng gọi "giao ban" vào giờ này ắt là có vấn đề. Cứ thế, cứ thế... sáu giờ sáng, ba nhóm trinh sát lên đường. Sáu giờ, ba mươi phút sáng, chín tờ thông báo và lệnh truy nã được gián lên khắp thị trấn. Riêng ông Lanh, sau khi giao nhiệm vụ cho trưởng công an xong, đã tiếp tục giấc ngủ cho đến sáng. Ông ngủ say như chết. Tính ông vốn vậy, xưa mẹ ông gọi ông là "thằng vô lo", vợ ông gọi ông là "kẻ vô tâm", bạn bè ông thì gọi ông là "người vô tư". Sướng nhé! Công việc huyện nhiều như núi, không vô tư đếch ngủ được. Ông hiền lành, rất hiền lành. Ai nói gì cũng tin. Ai ông đã tin là tin mãi. Ông không hiềm khích ai, cũng chẳng ai hiềm khích ông. Bởi ông chẳng biết để bụng. Cả việc của ông, ông cũng không để bụng. Sau khi phê phán một cán bộ nào đó, dù rất gay gắt, ra khỏi cuộc họp là ông ôm người đó rưng rưng nước mắt: "Bác thông cảm cho tôi, chẳng qua là việc nước việc dân chứ tôi với bác có gì!..." Có khuyết điểm là ông nhận ngay, nhận chân thành, có khi còn tự thú thêm nhiều chi tiết mà người ta không biết. Ai chửi mắng, quát nạt, ông đều nghe rất chân thành và buồn bực, cau có vì mình không làm cho cái người đã chửi mắng, quát nạt mình vui lòng. Ai khen ông - khen ít nhiều, giả thật - ông đều sướng. Ông còn khoe với người khác, cũng rất chân thành: "Hôm qua thằng ấy nó khen mình thế này...". Và ông cười to: "Đúng không? Nó khen mình đúng quá chứ lậy!" Ông rất thích họp. Họp, hoặc là người ta khen ông, hoặc ông khen người ta, đều sướng cả. Ông không bao giờ chán mục giới thiệu trong các hội nghị, các đại hội của cơ sở. Người ta giới thiệu, ông đứng lên, ngoái lại phía đám đông. Vỗ tay. Người ta giới thiệu ông lên phát biểu chỉ đạo thì ông lên, từ tốn, nhẹ nhàng trong tràng vỗ tay ngất trời trước vị lãnh đạo số hai của huyện nhà. Ông nói, vẫn từ tốn, nhẹ nhàng tình cảm, và thường theo một công thức này:
1. Thưa...
2. Tôi đến thăm các đồng chí có sáu cái cảm động (hoặc bảy cái cảm động, năm cái cảm động, ba cái cảm động... là tùy vào đối tượng mà ông phát biểu. (Mỗi cái cảm động, ông lại lấy ngón tay trỏ tay phải ngoắc vào ngón út tay trái).
3. Trong không khí thi đua sôi nổi chào mừng ngày kỷ niệm... (Bao giờ ông cũng tìm ra không khí thi đua sôi nổi này. Ví dụ, nếu phát biểu vào tháng Một thì "trong không khí thi đua chào mừng ngày mùng hai tháng Hai". Phát biểu vào tháng Hai thì "trong không khí thi đua chào mừng ngày hai sáu tháng Ba". Phát biểu vào tháng Tư thì "trong không khí thi đua kỷ niệm ngày mùng một tháng Năm và ngày mười chín tháng Năm". Phát biểu vào tháng Năm thì "trong không khí thi đua kỷ niệm ngày mùng một tháng Sáu". Phát biểu vào tháng Sáu thì "trong không khí thi đua kỷ niệm ngày hai bảy tháng Bảy". Phát biểu vào tháng Bảy thì "trong không khí thi đua kỷ niệm ngày mười chín tháng Tám và ngày mùng hai tháng Chín...vân... vân...)
4. Tôi rất hoan nghênh những kết quả các đồng chí đã làm được...
5. Cuối cùng, các đồng chí cần phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm...
Vỗ tay, rầm rầm rầm. Đại diện lên cảm ơn ý kiến chỉ đạo sâu sắc của ông. Lại vỗ tay. Đại diện hứa sẽ thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo về phương hướng công tác. Lại vỗ tay dài hơn. Rầm rầm rầm. Ông thích lắm, coi như cuộc họp đã thành công tốt đẹp, nhờ có ông mà thành công tốt đẹp. Thế thì làm gì ông chả thích họp! Cứ vài ngày lại có một cuộc họp, dù lớn nhỏ dứt khoát cũng có một cuộc họp, cuộc họp lần nào cũng cần sự có mặt của ông cùng các ý kiến chỉ đạo sâu sắc - "Phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm". Ông cắp cặp đi miết, giao phó công việc cho các phó chủ tịch. Họ - các phó chủ tịch cứ làm rồi báo cáo, ông chỉ cần ngồi nghe thật chăm chú, "thế hả?" - Vậy là xong , êm như “nhíp".
Người ghét ông, người thương ông, người khinh ông, người vỗ tay nhiệt liệt. Ông chấp nhận tất, cười kha kha rồi ngủ say như chết.
Bây giờ ông cuống lên khi Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh chỉ tay vào mặt, quát to. Thời này Chủ tịch huyện không là cái gì so với Bí thư huyện ủy. Thêm nữa, ông thừa biết Bí thư huyện ủy là người "học rộng tài cao", lại hiền lành, ít nói, bỗng nhiên nổi giận đùng đùng ắt là có chuyện. Ông trình bày, hấp ta, hấp tấp, lộn tùng phèo, đầu Ngô mình Sở. Đến nỗi ông cũng chẳng nhớ mình đang nói gì. Chỉ biết hơn nửa giờ sau, Bí thư huyện ủy ngắt lời ông, nhẹ nhàng:
- Thôi được, tôi hiểu.
Hơ, ông nói thế mà đồng chí Bí thư hiểu. Thế mới kỳ, ông nói mà ông chẳng hiểu gì hết còn đồng chí thì hiểu! Ông ngớ ra.
- Chiều nay vào khoảng ba giờ ta hội ý Thường vụ đột xuất.
- Ấy, tôi đã nhận khuyết điểm là manh động rồi kia mà! - Ông kêu to. Bí thư huyện ủy mỉm cười, lắc đầu:
- Chưa bàn đến khuyết điểm hay không. Vấn đề là chỗ có nên phát lệnh truy nã  hay không.
- Vâng.
Ông cáo lui. Ra khỏi cửa còn ngó liếc Bí thư huyện ủy một cái rồi đi thẳng. Được mươi bước, ông dừng lại lau mồ hôi trán, ngẫm nghĩ: "Có lẽ phải đến huyện đoàn"...
Trần Hới hơi ngạc nhiên khi thấy bố vợ mình xuất hiện trước ngạch cửa với cái vẻ mặt hoảng hốt, nhớn nhác:
- Ba hỏi con cái này. - Ông vẫy tay gọi Trần Hới ra khỏi phòng.
- Bác Thanh phản đối ba phải không? - Trần Hới bình tĩnh hỏi nhỏ.
- Ấy! Thằng này tài!
Ông rỉ tai Trần Hới nói như vầy, như vầy... Trần Hới cả cười mà rằng:
- Ba thử gọi điện thẳng lên Tổ chức tỉnh ủy trình bày việc này. Thế là xong.
- Tức là sao?
Trần Hới rỉ tai ông nói như vầy, như vầy... Ông cười to, vỗ đùi đánh đét.
- Thằng này giỏi!
Một phút sau, cú điện thoại của ông đã có hiệu quả. Trưởng ban tổ chức tỉnh ủy tức điên người, nói oang oang:
- Tôi sẽ báo cáo với Thường vụ tỉnh ủy ngay, đây là việc nghiêm trọng. Tôi nhắc lại với anh: cần phải cảnh giác những phần tử chống Đảng còn nắm những vị trí quan trọng trong tổ chức Đảng. Anh hiểu chưa?
- Dạ hiểu!
Ông dạ vang. Thả ống nghe ông bủn rủn chân tay. Lâu nay Đại úy Thìn mấy lần đề nghị ông phải cảnh giác Bí thư huyện ủy. Ông không tin, té ra bây giờ lại đúng! Khủng khiếp quá! Khủng khiếp quá! Nếu Bí thư huyện ủy thực sự chống Đảng thì nguy. Bởi vì sức ông không tài nào đối chọi với ông Thanh về mọi phương diện. Đối chọi có khi ông thua, ông là cái mả mẹ gì đâu, trình độ: sơ cấp chính trị, văn hóa: Lớp bảy bổ túc công nông! Thậm nguy! Thậm nguy!... Nhưng trấn tĩnh lại, ông nhớ đến Trần Hới, thằng con rể yêu quý của ông. Thằng này giỏi! Ông phải dựa vào nó, nó là quân sư của ông, đương nhiên rồi...



CHƯƠNG TÁM



Đại úy Thìn bước vào nhà đúng lúc Hoàng và Thùy Linh đang nằm ngủ say sưa trong buồng riêng của vợ chồng ông. Họ đã trải qua một tháng đợi chờ căng thẳng, đến lúc đã kiệt sức và tuyệt vọng, họ mới nhận ra họ đang cô độc trong cái xã hội mười lăm ngàn dân cư ngụ trong Thị trấn. Ai sẽ là người an ủi họ? Chẳng có ai cả. Đám bạn bè hết thảy đã xa lánh họ từ lâu, bây giờ được dịp chế nhạo, bôi bác họ. Té ra Hoàng là con trai của một kẻ chống Đảng, chưa ai công bố nhưng dư luận đã xôn xao khá lâu. Bây giờ đã có người gọi ba Hoàng là hắn, thằng ấy, tên ấy... dù vẫn gọi thầm nhưng đã gọi. Té ra Thùy Linh là con của con mẹ ngoại tình, yêu cả em chồng, dắt nhau chạy tít mù lên rừng để tiếp tục làm nốt cái việc loạn luân ghê tởm kia. Lại còn có "nhiều hoạt động chống lại công cuộc xã hội Chủ nghĩa Xã hội"... như đài truyền thanh huyện đã thông báo. Bậc thang giá trị của họ đã bị đánh lộn nhào, từ chỗ được coi là con nhà tử tế hạng một trong thị trấn, đến chỗ toàn dân nhất trí coi họ là con nhà gớm guốc nhất, độc hại nhất. Không có ai công bố việc này, nhưng tất cả đều nhìn họ với cái nhìn lạnh lùng khinh khỉnh. Họ tự thu mình trong góc nhà của Thùy Linh, ngại gặp với tất cả, đến nỗi cả hai không còn thiết tha gì việc phải cắp sách đến trường học nốt năm cuối cùng phổ thông, giật lấy cái bằng tốt nghiệp lớp mười lúc này hãy còn rất quý hóa. Họ vùi trong chăn, trong góc vườn, trong bóng tối, vật lộn với nhiều nỗi đau khổ mà tuổi họ không thể phân tích được. Họ tự tìm kiếm hạnh phúc bằng cách tự đánh lừa mình bằng vô số những cái hôn tràn ngập cơ thể của hai người. Cuối cùng họ đã liều mạng bước qua giới hạn tình yêu non tơ trong sáng như bao nhiêu mối tình đầu khác để ngập vào những thèm khát xác thịt bốc cháy.
Họ đang ngủ, sau cuộc giao hoan điên dại để chống trả nỗi cô đơn, họ đang vùi trong nhau ngủ say sưa. Đại úy Thìn đứng chết giấc trước cái giường cưới của vợ chồng ông. Đại úy không còn tin vào mắt mình nữa. Hai đứa bé hỉ chưa sạch mũi đang trần truồng trước mắt ông. Cái gì thế? Cái gì thế? Vú và đùi, mông và mông trắng đầy trên cái giường cưới của vợ chồng ông. Môi đứa này áp vào má đứa kia, bốn cánh tay trần cuốn lấy nhau chặt khư. Trên mặt của chúng còn đọng những giọt nước mắt không biết vì vui sướng hay tủi hờn. Chúng nó hoặc ngủ hoặc chết hoặc đang dính vào nhau trong cuộc giao hoan dang dở, không thể phân tích được. Trắng trắng trắng trắng... đang dềnh lên trước mặt Đại úy. Đại úy dựa vào tường thở dốc, mắt trợn ngược. Ông lao đến, giật mạnh tay Hoàng, gầm lên:
- Lũ chó chết! Dậy!
Hoàng và Thùy Linh bật dậy, cả hai nom thấy bộ mặt đẫm mồ hôi của Đại úy dí sát vào mặt họ, lập tức họ co rúm người lại, nhớn nhác tìm đường tẩu thoát. Không kịp, Đại úy đã túm được tay họ. Nhanh như cắt, Hoàng dồn sức húc đầu vào bụng Đại úy. Đại úy kêu lên một tiếng, ngã nhào. Nhanh như cắt, Thùy Linh vơ vội quần áo lao vào buồng riêng của mình. Hoàng túm lấy bộ quần áo dài chạy vọt ra ngõ, biến thẳng. Đại úy chực lao đuổi theo, chợt nom thấy cái quần lót của Hoàng, ông túm lấy chạy ra cửa. Ông tung cái quần lót lên cao, hét vang:
- Quân tư sản! Quân phản động! Bằng chứng đây rồi, tao đố mày thoát được. Hoàng!
Đại úy xộc vào buồng riêng Thùy Linh. Ông xô cửa, cửa bị khóa trái.
- Mở cửa ra! Có mở ra hay không?
- Con đang thay áo quần, ba đợi cho mấy phút.
Thùy Linh trả lời, giọng nhẹ nhàng như không. Nghe giọng khá bình tĩnh của Thùy Linh, Đại úy càng điên tiết. Ông nuốt nước bọt, dằn giọng:
- Được rồi! Thế thì nhanh lên!
Đại úy ra bàn uống nước ngồi chờ. Sẽ nói gì với nó đây, cái đứa con gái mất dạy của ông? Tất cả những gì cần nói với Thùy Linh, ông đã nói ròng rã sáu bảy năm nay vào giờ "đạo đức học" tối thứ Bảy hàng tuần. Mỗi tối thứ Bảy ông đều dành hẳn một giờ để hỏi chuyện học tập, lao động, tu dưỡng của Thùy Linh. Kết thúc việc hỏi chuyện bao giờ cũng có mười lăm phút Đại úy nhắc lại, có mở rộng và đào sâu hơn, với Thùy Linh thế nào là con người mới Xã hội Chủ nghĩa. Sáu bảy năm trời ông nói hết mọi nhẽ với Thùy Linh, thế vẫn không đủ hay sao? Nếu không đủ thì thiếu cái gì? Mẹ kiếp, thiếu cái gì nhỉ? Đại úy thấy đầu mình rỗng không, ngực ông sôi lên sùng sục còn đầu thì rỗng không.
Thùy Linh chậm chạp bước ra, nhẹ nhàng ngồi xuống ghế, mở to mắt chờ đợi. Bất chợp Đại úy nhớ đến vợ mình, cô ấy cũng có đôi mắt như thế. Đôi mắt đẹp mê hồn khiến Đại úy đã say mê ngay từ phút đầu gặp gỡ.
- Bây giờ thì ba nói đi. - Thùy Linh nói nhỏ, gần như thì thầm. Đại úy lấy ngón tay trỏ gõ gõ xuống bàn:
- Tao nói... tức là tao nói...
Đại úy gầm gừ. Sau mấy tiếng gầm gừ đó, Đại úy không tìm được điều gì để nói thêm. Thùy Linh vẫn ngồi yên chờ đợi. Gương mặt buồn nhưng bình thản kỳ lạ. Dường như cô đã đoán trước kết cục số phận mình. Mọi nỗi run sợ đã qua đi, bây giờ là nỗi chán chường trước số phận. Khi người ta đã biết trước đời mình sẽ không được một cái gì, người ta cũng chẳng sợ mất một cái gì...
- Mày... mày làm trò gì? Trò gì? - Đại úy tiếp tục gầm gừ.
- Ba hỏi con phải không? - Thùy Linh vẫn dịu dàng.
- Tao hỏi mày đấy, con mất dạy! - Đại úy quát.
- Vậy con trả lời: đấy là trò của tình yêu.
Đại úy đập bàn đánh "rầm".
- A, con này láo! Bẩn thỉu, nhơ nhuốc thế mà mày bảo trò của tình yêu.
- Thế ba bảo đấy là trò của cái gì?
Đại úy đứng bật dậy mặt mày đỏ bừng:
- Đấy là trò của quân tư sản, quân phản động, nghe rõ chưa! Mày đã ăn phải "dớp" của mẹ mày, nọc độc của thằng Tư. Tâm hồn mày đã thối rữa ra như... như cứt! Đồ khốn kiếp.
Đại úy nói to, văng cả bọt mép. Ông cố gồng người lên để chống trả nỗi run sợ vì thua cuộc trong cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa con ông và ông. Trực giác của người lính đánh giặc hai mươi năm báo hiệu cho ông biết ông sẽ thua cuộc. Ông không thể thua, không bao giờ chịu thua, đời ông chưa bao giờ chịu thất bại.
- Tao nhắc lại: đó không phải trò của tình yêu, con mất dạy. Đấy là trò của quân tư sản, quân phản động!
- Đấy là quan niệm của ba.
Đại úy trợn mắt hỏi:
- Cái gì?
Thùy Linh ngước lên, bình thản nói:
- Mỗi người có một quan niệm dành cho hạnh phúc của mình. Ba không thể đổ tất cả quan niệm của ba vào đầu con được.
- A! Thế nghĩa là mày nói tao không dạy được mày chứ gì?
Thùy Linh đứng bật dậy, mặt rắn lại:
- Đúng vậy. Ba không thể dạy ai được hết. Tất cả những gì ba định dạy cho mẹ con và con đều lạc hậu hết rồi.
"Bốp" một tát dáng xuống mặt Thùy Linh. Cô gục xuống một lát, nhổ nước bọt. Vài chục giây sau, cô lại ngẩng phắt lên:
- Bây giờ ba muốn gì ở con thì ba nói đi. Con lớn rồi, không ngu ngốc như ba tưởng.
- Tức là thế nào, cái con mất dạy kia? - Đại úy nói không ra hơi.
Thùy Linh im lặng. Đại úy túm lấy áo ngực Thùy Linh xốc ngược lên:
- Mày hãy nói đi, mày có còn coi tao là ba mày nữa không?
Thùy Linh vẫn im lặng. Cô nhìn thẳng vào mắt Đại úy.
- Nói đi chứ!
"Bốp"
- Nói đi!
"Bốp"
Thùy Linh đổ sụp xuống nền nhà. Cô không khóc. Không cựa quậy. Cô nằm im như thế gần nửa giờ thì ngồi dậy bới tóc, bình thản chuốt từng sợi một. Đại úy hằm hằm nhìn Thùy Linh. Ông thấy bất lực, đã hết cách cứu vãn trước một thực tế ghê gớm đang diễn ra trước mắt mình. Thùy Linh đã bới tóc xong, cô vào buồng xách một gói nhỏ đựng quần áo và vài ba đồ tư trang cần thiết. Dừng lại trước mặt Đại úy chừng vài bước, cô nói, vẫn dịu dàng:
- Lúc nãy ba hỏi con có coi ba là cha đẻ của con nữa hay không? Con chưa kịp trả lời, ba đã đánh. Bây giờ con xin thưa với ba: Có. Bao giờ ba cũng là cha đẻ của con. Nhưng bây giờ con kinh tởm ba. Mẹ con đã kinh tởm ba mà bỏ trốn. Con không bỏ trốn như mẹ con, con đi, ra đi trước mặt ba. Ba không cấm con được đâu trừ phi ba giết con tại chỗ. Con đi đây. Ba bán nhà rồi về đơn vị mà ở.
Dứt lời, Thùy Linh bước thẳng ra cửa. Đại úy ngẩn người. Ông nhìn theo bóng đứa con gái vừa ra khỏi ngõ đã ù té chạy. Đại úy không đuổi bắt, không gọi trở lại, ông lừ lừ nhìn theo Thùy Linh cho đến khi cô khuất hẳn sau đám rưới. Đại úy rút súng lục, tra đạn, bất thần chĩa thẳng lên trời bóp cò. Một tiếng súng nổ vang cùng với tiếng thét đến lạc giọng:
- Thế là chấm dứt hai tên tiểu tư sản!
Đại úy để rơi súng, đổ sụp xuống nền nhà. Dân trong xóm nghe tiếng súng kéo đến, thấy Đại úy nằm bất tỉnh, mắt trợn ngược, sùi bọt mép.


                                                  *


                                         *                 *

Thoáng thấy Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy rẽ vào quán của mình, Cule đã chạy ra, giơ hai tay lên trời:
- Ối giời ơi, anh Huy. Từ bữa "mùng năm tháng Tám" ([1]) đến giờ không thấy bóng bác đâu.
Ông Huy cười hề hề:
- Công việc như núi, bận quá! Bận quá! Với lại thịt chó phải thỉnh thoảng nhậu một bữa mới ngon.
- Chí phải! - Cule rụp hai tay xuống mông. Đoạn, thoăn thoắt vào bếp, nói với ra:
 - Bác đợi em một tý, xong ngay đây. Không biết dạo này bác có hay rượu nữa không?
Ông Huy nói chõ vào:
- Cứ làm đàng hoàng vào, cấm hỏi. Thịt chó mà không rượu khác gì nhai khoai sống.
- Chí phải!.. Bác Huy ơi, nghe nói tình hình chính trị, quân sự dạo này phức tạp lắm phải không ạ?

- Không phức tạp mà tôi phải đến nhậu thịt chó à?
- Em hiểu! Em hiểu! "Ai thắng ai" là kinh lắm!
- Kinh quá chứ còn gì nữa.
Ông Huy gật gù. Ông nghĩ là Cule muốn hỏi tình hình chiến sự đang căng thẳng lên bội phần sau ngày mồng năm tháng Tám. Ngày đó là ngày ông sợ nhất trong năm nay. Đương nhiên là ông đã được phổ biến trước, sau đó ông đã xách đèn bão đến từng cuộc họp khác nhau để phổ biến lại cho dân chúng của ông nghe. Nhưng khi "cuộc chiến tranh hai mươi phút" xảy ra đã làm ông hoang mang thật sự. Không ngờ tiếng máy bay rít mới ghê. Mỗi lần chúng bay lướt qua nóc nhà Ủy ban, tiếng rít làm rung chuyển cả một vùng, khiến ông dựng tóc gáy. Khi chiếc AD6 lật cánh từ phía sau xóm Cau bất ngờ lao vút xuống cầu Vĩnh Tét, nhả ra hai quả bom đen chũi, cũng lao vút xuống cầu thì ông đã tính chui xuống gầm bàn. Tất nhiên ông không chui, mấy đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy thị trấn đang đứng chạng chân trước sân nhà Ủy ban bắn tới tấp, cứ gì ông chui xuống gầm bàn? Họa là có đeo mo mới làm thế. Ông liều chạy ra sân, chỉ trỏ lung tung: "Bắn! Bắn! Bắn bỏ mẹ nó đi!". Ấy là là ông hô thế chứ mắt ông nhắm tịt, may tất cả đều ngẩng lên trời không ai trông thấy. Máy bay đã chuồn ra biển, "cuộc chiến tranh hai mươi phút" kết thúc thật vui vẻ: ta không sao, địch cũng không chẳng việc gì. Chủ tịch thị trấn thở phào nhẹ nhõm, bụng hãy còn run. Mấy ngày sau, ấn tượng về tiếng rít máy bay vẫn còn ám ảnh ông. Có đêm đang ngủ, ông bỗng chặt mạnh chân xuống chiếu, bất thần ngồi dậy, ngơ ngác một lúc lâu mới từ từ nằm xuống ngủ tiếp. Liên tiếp mấy tháng nay, Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin máy bay Mỹ oanh tạc nhiều nơi trên miền Bắc, gây ra nhiều đau thương mất mát cho đồng bào ta. Ông nghe rất chăm chú, không quên ghi chép số máy bay ta bắn rơi, bụng bảo dạ: "Mẹ... nói thì mất lập trường, chớ nó ở trên trời, nó ụp xuống khi nào đếch biết được. Đời thủa nhà ai, máy bay lại bay nhanh hơn đạn súng trường thì kinh quá!"

Sau "cuộc chiến tranh hai mươi phút" vừa dứt, người ta thông báo cho nhau tốc độ máy bay của Đế quốc Mỹ lớn gấp nhiều lần tốc độ máy bay Đế quốc Pháp, gọi là tốc độ siêu âm. Chúng ở độ cao lớn, đôi khi rất lớn, súng bộ binh không "với" tới được, trừ hai trường hợp: bổ nhào và hạ thấp độ cao để tránh pháo cao xạ. Do đó, việc chạy đuổi theo đít máy bay để bắn, hoặc leo lên các ngọn cây, các mái nhà để bắn đặng hy vọng tiếp cận máy bay được gần hơn trở nên vô lý và ngô nghê. Các bài học cơ bản về việc sử dụng các loại súng bộ binh để bắn máy bay địch được phổ biến rộng rãi. Dân quân tập luyện suốt ngày đêm, dần dà đã nhận ra cái lần họ tham chiến trong "cuộc chiến tranh hai mươi phút" thật là đần độn. May là nó cũng chỉ xảy ra như một vụ khiêu khích và đám phi công tập kích hôm ấy cũng đần độn như đám dân quân dưới đất, thế mới "hòa cả làng". Bây giờ, cuộc chiến tranh ấy đang trở lại, nó đã được chuẩn bị kỹ càng, chẳng còn đần độn ngây ngô như trước nữa. Nghĩ là nó không còn là trò đùa hay trò giễu cợt nhau như một số người nhầm tưởng. Nó đến để chiếm đoạt, cố sống, cố chết để chiếm đoạt, dùng mọi thủ đoạn xảo trá, tàn ác, bẩn thỉu nhất để chiếm đoạt bầu trời và mặt đất thị trấn Linh Giang. Không ai, kể cả ta lẫn địch còn ngây thơ như trước nữa. Một cuộc độ sức bằng máu sẽ xảy ra quyết liệt, dai dẳng. Chỉ còn chút nhầm lẫn cả hai phía ở thời kỳ đầu này thôi: ai cũng nghĩ, nó chỉ xảy ra hoặc vài ngày hoặc vài tháng là cùng. Đám phi công tin rằng họ sẽ biến cái đám dân quân với các loại súng bộ binh cổ lỗ sĩ thành những bầy vượn người trong chốc lát. Rồi họ giải nhiệm. Để mặt đất có những bầy vượn người kia cho các công ty khai thác thuộc địa của nước Mỹ tha hồ tranh nhau đào xới, họ sẽ bay về nước nhẩy bổ vào đám đàn bà tràn trề mông vú để quấy đảo cho đến "phút cuối cùng của ý chí". Sau đó họ sẽ gác đầu mình trên một cái mông nào đó, ngủ một giấc dài đợi đến lượt tái sinh sau. Đám dân quân tin rằng quá lắm họ cũng chỉ mất vài tháng là có thể vặn cổ hết ráo đám phi công láo xược kia, vì họ thuộc về phe chính nghĩa, lại có đủ các loại sức mạnh cùng với lòng dũng cảm, chí kiên cường mà đám phi công, do lý tưởng của họ mịt mù như khói, không cách gì có được. Đấy là những nhầm lẫn của cả hai phía. Về sau, khi đã thực sự vào trận tuyến, cả hai đều nhanh chóng nhận ra: có một sức mạnh tiềm tàng phía sau mỗi bên khiến họ không thể giải quyết cuộc chiến theo mong muốn của họ...

Lúc này, Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy không nghĩ như thế, phải đến tám năm sau ông mới nghĩ đến điều này. Ông ngồi rung đùi đợi thịt chó. Bụng bảo dạ: "Đánh nhau với thằng có cánh khó lắm! Khó lắm!". Người bưng mâm thịt chó cùng với "cút" rượu ra cho ông không phải là Cule, đấy là Thùy Linh. Ông ngơ ngác nhìn Thùy Linh, mắt không chớp. Thùy Linh mỉm cười, khẽ khàng:
- Mời bác.
- Ấy... - Ông mở to mắt, không biết nói thế nào.
 - Tại sao con gái Đại úy Thìn lại có mặt ở đây? Có mặt từ bao giờ? Lý do gì bỏ học chui vào quán thịt chó Cule?
- Bác Cule ơi! - Ông gọi.
Cule hớn hở chạy ra, bao giờ Cule cũng hớn hở khi được khách gọi. Chủ tịch thị trấn chỉ vào Thùy Linh, nghiêm mặt hỏi Cule:
- Tức là sao?
Cule gãi đầu, giọng phân bua:
- Hoàn cảnh cháu rất cô đơn, mẹ cháu bỏ đi, ba cháu theo đánh Mỹ. Hoàn cảnh em cũng khó khăn, một mình em ôm quán thịt chó không xuể. Em có nhờ cháu đến giúp đỡ, bác cháu có nhau cho vui cửa vui nhà.
Ông Huy xua tay:
- Không được! Không được!... Việc này bác đã báo cáo với chính quyền chưa? Chưa chứ gì? Ắt thế. Vậy mà bác dám thuê đứa ở, lại dám thuê con một đồng chí cán bộ cốt cán. Bậy! Tôi nói là bậy!
Thùy Linh nhíu mày, cô thấy bực. Tuy vậy cô vẫn dịu dàng:
- Cháu không đi làm thuê! Cháu buồn, xin đến ở với bác Cule cho vui.
Ông Huy trợn mắt:
- Vui hay không tôi bất biết! Chế độ ta ưu việt, cháu biết quá đi rồi, thế mà cháu lại chịu đi làm thuê cho người khác.
Cule hoảng quá, vội vàng bưng ngay một đĩa dồi chó ra, xun xoe:
- Ấy! Mời bác! Mời bác! Quả tình là em cũng đơn giản vấn đề! Bác thứ cho...
Ông Huy liếc đĩa dồi chó bổ sung, nói:
- Bác cho tôi ăn thì tôi ăn, còn vấn đề là vấn đề đấy nha! Chiều mai bác đến Ủy ban làm việc.
- Dạ! Dạ!
Cule gập người dạ to hai tiếng. Ông Huy gật đầu ra chiều ưng ý. Ăn uống xong, ông phủi đít quần đứng dậy, hất hàm hỏi:
- Tiền nong ra sao?
- Ối giời ơi! Bác đến quán em là phúc cho em lắm, lại còn tiền nong gì nữa! - Cule ôm quàng lấy lưng Chủ tịch thị trấn, xoa xoa tấm lưng nóng rực vì rượu của ông, nói cười hớn hở.
Chủ tịch thị trấn mặt mày tươi tỉnh hẳn lên, về đến nhà hãy còn tươi tỉnh.
Cule bảo Thùy Linh:
- Cháu đừng lo, không việc gì đâu.
- Ngộ nhỡ họ đuổi cháu đi thì sao?
- Không. Bác sẽ xin, chính quyền ta ưu việt lắm, xin cái gì cũng dễ. Vấn đề là có cái gì để mà xin...
Nói xong, Cule nháy mắt Thùy Linh, ngửa cổ cười.
Thùy Linh không hiểu, dù đã vào đời, cô hãy còn ngơ ngác trước bao nhiêu chuyện ở đời.
Sau khi rời khỏi nhà, Thùy Linh đi thẳng tới quán thịt chó Cule, Thùy Linh bước vào quán, đặt gói nhỏ áo quần xuống ghế, nhỏ nhẹ hỏi:
- Cháu muốn xin làm việc ở quán bác.
Cule đứng ngớ ra, không biết trả lời ra sao. Thùy Linh nhắc lại, nói rõ hoàn cảnh của mình rồi ngồi chờ đợi. Cule cầm con dao phay gõ gõ xuống thớt:
- Thú thực, bác cũng muốn cháu ở đây, đỡ chân tay cho bác, nhưng bác sợ. Thiệt tình bác sợ. Cháu không biết chứ bác nhân chi sơ tính bổn nhát...
Cule vừa dứt lời, Thùy Linh đã đứng lên. Vẫn giọng nhỏ nhẹ, cô thưa:
- Vậy xin bác, cháu đi.
Cô bước nhanh ra khỏi nhà, lao thẳng ra bờ sông. Cô vừa chạy vừa khóc. "Mẹ ơi, mẹ làm con khổ quá!", cô nấc lên đau đớn. Gió ù ù thổi. Bờ sông dập dềnh những con sóng lăn tăn, Thùy Linh đứng dậm chân mép bờ sông Linh, đau đáu nhìn sang bờ bên kia, nhìn xa nơi thượng nguồn, nơi có chín mươi chín ngọn núi xanh mờ. Có lẽ cô sẽ sang sông, sẽ đến trú ẩn trong dãy núi xanh mờ kia, cho đến khi hóa vượn. Đến khi đó Hoàng sẽ tìm ra Thùy Linh. Một anh chàng đẹp trai với một con vượn cái, nhảy múa, nhảy múa...
- Thùy Linh!
Thùy Linh quay ngoắt lại. Cule đứng sau lưng Thùy Linh từ bao giờ, miệng mếu máo, nước mắt lưng tròng. Con người luôn luôn hài hước thế kia cũng có khi phải khóc.
- Về với bác. - Cule nói run run: - Đừng đi đâu, cứ về ở với bác.
- Bác không sợ nữa à? - Thùy Linh làm mặt giận.
- Bác sẽ thu xếp ổn thỏa cả thôi.
Cule cười nhăn nhó. Thùy Linh mỉm cười, cô cúi đầu lẽo đẽo theo chân Cule về quán. Được bốn ngày, cô nhận được thông báo của nhà trường đuổi học vì tội hủ hóa. Cô cười. Ắt là có thư tố cáo của ba cô. Cô cầm lấy tờ thông báo khóc cười suốt cả buổi chiều.
Đến giờ đã một tháng, cô sống yên ổn trong quán thịt chó Cule. Hoàng cũng bỏ học, anh không thể đến trường nếu không có Thùy Linh. Thêm nữa, bây giờ tiếng ồn ào dị nghị về tội hủ hóa của anh và Thùy Linh đã lây lan khắp trường, làm sao anh ngước mặt lên nổi để mà học. Tuổi của Hoàng và Thùy Linh chưa phải tuổi có đủ khả năng "đạp qua dư luận để mà sống" như nhiều cặp tình nhân khác. Họ vẫn còn run sợ dư luận, sợ kinh khủng. Ngày ngày Hoàng vẫn đến thăm Thùy Linh, những khi vắng khách, họ cùng nhau chạy ù ra bờ sông Linh, hoặc ra sau rừng phi lao sau thị trấn. Họ vùi trong cát, vùi trong nước... rối rít trong cuộc tìm kiếm đực cái muôn năm của người đời.
Vào khoảng chín giờ tối, Hoàng lao vào quán thịt chó. Anh đứng sững trước mặt Cule thở dốc, hỏi:
- Thùy Linh đâu bác?
- Nó ngủ rồi. Tối nay nó kêu nhức đầu.
Hoàng ngồi xuống ghế, hai tay bóp trán. Thoáng thấy mặt Hoàng biến sắc, Cule hỏi nhỏ:
- Có việc gì quan trọng không?
Hoàng không trả lời, anh rút trong ngực ra tờ giấy gấp tám đưa cho Cule. Đó là thư Họa sĩ Tư gửi cho Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh. Đọc xong, Cule la lớn:
- Nguy to rồi!
Ông chạy xộc vào buồng lôi Thùy Linh dậy. Thùy Linh bước ra, Hoàng chạy đến hỏi:
- Em đã biết chuyện gì chưa?
Cule nháy Hoàng, ra hiệu cho anh đừng nói với Thùy Linh vội. Hoàng không hiểu, anh kéo Thùy Linh sát mình, nói:
- Chú Tư và thím Hoa đã tự vẫn!
- Cái gì? - Thùy Linh đẩy Hoàng ra, mặt tái mét. Cô bước lùi từng bước. - Anh vừa nói cái gì? Anh vừa đưa tin cái gì? Ai tự vẫn? Ai...
Hoàng đưa thư cho Thùy Linh. Cô cầm lấy run run mấy đầu ngón tay, rồi hai đầu môi run, rồi toàn thân run lên. Cuối cùng cô đổ ụp xuống ngất xỉu.
"Anh Thanh kính mến!
Chúng tôi ra đi không kịp chào anh, thật là vô lễ. Một cuộc bỏ trốn ngu xuẩn của hai kẻ khốn nạn đã thành công. Chúng tôi tính sẽ tìm đến một thung lũng nào đó cắm lều kiếm kế sinh nhai. Đáng ra anh phải hiểu rằng chúng tôi chỉ từ giã cái xã hội mười vạn dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt của anh mà thôi, không bao giờ chúng tôi trốn chạy loài người. Nhưng anh không tin hoặc không dám tin rằng cuối cùng chúng tôi vẫn là những người tốt, có thể có ích cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Vậy là anh đã ra lệnh truy nã chúng tôi. Lính tráng các anh giỏi lắm, chúng tôi chạy về đâu cũng bị truy nã. Tại thời điểm viết thư cho anh, xin báo để anh mừng, chúng tôi đang bị dồn đến chân tường.
Chúng tôi viết thư này để báo cho anh biết anh đã chứng minh thành công chúng tôi là những kẻ khốn kiếp, không thể tồn tại trong xã hội tươi đẹp của chúng ta được. Đúng mười hai giờ trưa nay chúng tôi sẽ xuống ở nhờ vua Thủy Tề vài thế kỷ. Giá anh có mặt ở đây, cao điểm 405 ở B.R. (anh nhớ không?), anh sẽ trông thấy một cuộc nhảy đôi tuyệt đẹp xuống thượng nguồn sông Linh...
Gởi tới anh lời chào cao cả. Xin anh bí mật cho lá thư này, đến khi Thùy Linh cưới chồng thì nhớ anh báo lại...”
Thùy Linh từ từ mở mắt. Cô trân trối nhìn Hoàng, nhìn mãi. Mặt cô đang tái xanh dần ửng đỏ. Cô chỉ tay vào mặt Hoàng, nghiến răng quát:
- Anh là kẻ độc ác! Độc a-ác !
Hoàng giật mình, bước lùi một bước.
- Em nói gì thế... Thùy Linh!
- Cút ngay! Đồ... độc ác? Cút đi! Tôi bảo là cút đi mà. Tôi ghê tởm lũ các người! Tôi ghê tởm...
Thùy Linh hét vang nhà và òa khóc nức nở trong căn nhà ngậy mùi thịt chó.
                                         *

                                *              *



Bỉ nói:
- Đòn thứ tư của Trần Hới đã thành công. Trận đấu kết thúc tốt đẹp: 4 - 0 nghiêng về phía Trần Hới.
Bỉ nói một mình, với không khí. Xưa nay, anh chưa từng nói điều mình nghĩ với ai. Tự anh thấy mình là kẻ hèn nhát. Anh chế giễu anh, khinh thị anh và tiếp tục dạ ran mỗi khi có người bất cứ cấp chức gì, ra lệnh. Mười năm sắm vai một thằng hèn nhát đã quá mệt mỏi. Mặc dù càng ngày anh càng đạt đến độ "chín" trong vai diễn của mình, nhưng nếu tiếp tục thì ớn quá. Anh đã ớn đến tận cổ. Cần phải làm một cái gì, một cái gì đó anh chưa hình dung ra nhưng phải làm, để người đời có thể vén được cái màn giả dối mà anh sắm khá đạt, nhận được chân dung của anh.
Bỉ nhẩm tính, cả bốn quả sút vào lưới Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh đều rất "đẹp". Trần Hới xuất hiện trên sân với tư cách không phải là người làm bàn. Y là người tổ chức tấn công, đẩy bóng cho bố vợ y là ông Lanh và Đại úy Thìn lần lượt sút bóng vào lưới. Quả thứ nhất là một quả phạt góc, do Trần Hới đá bóng vào chân Bí thư huyện ủy. Ấy là việc Trần Hới tự tổ chức ngày sinh nhật ông Thanh với qui mô lớn chưa từng có so với bất kỳ lễ sinh nhật nào trong tỉnh. Vậy là Bí thư phạm qui, chịu phạt góc. Đại úy Thìn nhận đá quả này. Đại úy đá rất đẹp. Một bức thư gửi thẳng tới Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy mô tả lễ sinh nhật rầm rộ như thế nào khiến Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy tái mặt. Ông đệ thư này lên Bí thư tỉnh ủy. Bí thư tỉnh ủy đập bàn nói lớn: "Hắn (tức chỉ Bí thư huyện ủy) làm trò gì thế này? Cán bộ cách mạng mà thế này à? Hỏng!". Vậy là quả thứ nhất đã vào lưới. Quả thứ hai do Trần Hới chuyền một đường bóng rất đẹp cho Đại úy Thìn, Đại úy nhận được bóng sút mạnh, quả bóng bay rất căng. Ông Lanh ở góc trái, đá tiếp sức, quả bóng lật cánh một góc hẹp bay thẳng vào lưới. Ấy là việc Trần Hới phát hiện ông Thanh tự động thả Họa sĩ Tư - một tên họa sĩ có tư tưởng chống đối cách mạng - liền rỉ tai Đại úy Thìn. Đại úy trực tiếp kiến nghị với ông Lanh. Ông Lanh điện thẳng vào Tỉnh ủy. Tỉnh ủy trả lời: "Việc lấy quyền của mình để ngăn cản các cơ quan chức năng làm việc là sai. Nghiêm trọng hơn, đây là dấu hiệu bao che một văn nghệ sĩ có tư tưởng chống đối chủ nghĩa xã hội". Quả thứ hai thành công chứng tỏ Trần Hới rất có khả năng tổ chức tấn công. Quả thứ ba do chính Bí thư huyện ủy chạm tay vào bóng ở ngoài vạch 16m50. Đáng lẽ chỉ đá phạt gián tiếp nhưng Trần Hới đã khéo cãi trọng tài, buộc trọng tài phải công nhận việc chạm tay vào bóng xảy ra trong vòng cấm địa. Ấy là việc Bí thư huyện ủy tự thú trong bản kiểm điểm gửi lên Tỉnh ủy là có một khoảng thời gian hơn một ngày ông bị Pháp bắt giữ trong khi đi công tác. Sau đó ông đã trốn thoát được. Ông không kể việc này trong lý lịch vì cho rằng đây là chuyện nhỏ, không đáng kể. Trần Hới đã lập luận cho ông Lanh rằng thời gian một ngày hay một tháng ai đảm bảo? Và trong khi bị giam giữ, ông Thanh có khai báo gì không, liệu có ai hay? Và việc không đưa vào lý lịch vì "cho rằng đây là chuyện nhỏ, không đáng kể" thì thật là ngây thơ, chỉ đánh lừa được lũ trẻ. Ông Lanh lập luận lại với Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy và được công nhận đây đúng là việc nghiêm trọng, không thể đùa được. Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy nói: "Chúng ta không thể chủ quan cho rằng trong tổ chức Đảng không có những phần từ phản bội đang ẩn nấp được. Cần phải cảnh giác cao độ!". Quả 11m được thực hiện. Ông Lanh là người trực tiếp đá quả phạt này, cú đá rất căng, tung lưới! Quả thứ tư là kết quả sự phối hợp tài tình giữa Trần Hới, ông Lanh và Đại úy Thìn. Đầu tiên quả bóng xuất hiện rất vu vơ. Ông Lanh đá hờ vào khung thành Bí thư huyện ủy và bị đá bật ra ngay lập tức. Bóng chạm chân Đại úy Thìn. Đại úy gạt sang cho Trần Hới. Trần Hới đưa bóng cho ông Lanh. Ông Lanh đá trượt, quả bóng rơi vào chân Bí thư huyện ủy. Tình thế lập tức có lợi cho Bí thư huyện ủy. Ông dắt bóng băng băng lao đi. Trần Hới đã khôn khéo "nháy" ông Lanh và Đại úy Thìn phối hợp bắt việt vị. Bí thư huyện ủy bị trọng tài thổi còi. Quả phạt việt vị được thực hiện. Người đá quả này là Đại úy Thìn. Vì đã rời khung thành quá xa, Bí thư huyện ủy không kịp trở lui. Vậy là quả thứ tư lọt lưới. Ấy là việc ông Thanh nhất trí bằng mồm với Đại úy Thìn sẽ làm lệnh truy nã. Sau khi về đơn vị, tối hôm đó Đại úy điện cho ông Lanh "ý kiến của đồng chí Bí thư huyện ủy". Ông Lanh điện sang công an huyện. Lệnh truy nã được thực hiện. Sau đó ông Thanh phê bình ông Lanh tự động quyết một vấn đề quan trọng không thông qua thường vụ. Ngỡ là ông Lanh bị cảnh cáo đến nơi, chẳng dè sau cái rỉ tai của Trần Hới, ông Lanh đã thay đổi được tình thế. Trước khi họp Thường vụ huyện ủy, ông điện thẳng cho Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy về sự trốn thoát của Họa sĩ Tư và lần thứ hai Bí thư huyện ủy ngăn cản các cơ quan chức năng, không cho họ hành động. Đồng thời lúc đó, Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy nhận được thư khiếu nại của Đại úy Thìn về việc Bí thư huyện ủy bao che Họa sĩ Tư. Trần Hới viết bài phê bình sáu mươi tư bức tranh đồi trụy, chống Chủ nghĩa Xã hội của Họa sĩ Tư, gửi cho đài tỉnh đọc ra rả suốt ngày. Thường vụ Tỉnh ủy họp đột xuất, một ngày sau điện gọi Bí thư huyện ủy vào Tỉnh ủy "làm việc" ngay. Tuần sau, một đoàn kiểm tra Đảng được điều ra huyện Linh Giang. Bí thư huyện ủy buộc phải công nhận là mình sai lầm. Quả thứ tư đã kết thúc trận đấu... Bây giờ chỉ còn đợi kết luận cuối cùng của Tỉnh ủy về Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh nhưng hầu như mọi người đều đã nhận thấy kết cục của nó.
Trong cuộc họp xét kỷ luật Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, có sự hiện diện của Bí thư tỉnh ủy, không ai ủng hộ ông Thanh. Ông Thanh cũng chẳng phân bua gì, ngồi bóp trán ròng rã bốn tiếng đồng hồ rồi đứng dậy mệt mỏi nói:
- Tôi nhận tất cả...
Một tuần sau, ông nhận quyết định cảnh cáo, thông báo kỷ luật này đến tận chi bộ, cũng là lúc ông viết đơn xin nghỉ hưu và được chấp thuận nhanh chóng. Ông chào một lượt tất cả cán bộ trong huyện ủy và ủy ban, một cái bắt tay, một nụ cười gượng, và đi. Có người muốn níu ông lại nói vài lời cảm thông nhưng ông không nghe, trừ ông Lanh Chủ tịch huyện.
- Tôi cũng không ngờ anh bị kỷ luật nặng thế? - Ông Lanh thật thà nói. Quả thật là ông không ngờ, nếu biết trước tỉnh ủy sẽ xử lý ông Thanh như vậy hẳn là ông sẽ không hăng hái đấu tranh với ông Thanh dữ vậy. Làm việc với nhau gần hai nhiệm kỳ, quan hệ của ông và ông Thanh nào có sứt mẻ gì, bởi ông luôn luôn coi ông Thanh là ông thầy của mình về mọi mặt, bởi vì ông không bao giờ có ý định lật đổ ông Thanh để ngồi vào cái ghế quan trọng nhất huyện này mặc dù  được làm bí thư huyện ủy cố nhiên vẫn thú hơn làm Chủ tịch huyện. "Phê và tự phê" là yêu cầu của Đảng. Ông thực hiện điều này với một nhiệt tình cháy bỏng và sự kém cỏi của trí tuệ. Phê bình mình và phê bình người khác ông đều thực hiện hồn nhiên không một tính toán vụ lợi với khao khát tất cả phải tốt nhanh lên, càng nhanh càng tốt, nếu không ông chết rồi mà vẫn không biết Chủ nghĩa Xã hội ra làm sao.
- Tôi biết anh giận tôi lắm. Thú thực tôi đau đầu quá, không hiểu ra làm sao nữa. Nào tôi có muốn hại ai bao giờ...
Ông Lanh ngồi đối diện với ông Thanh trong phòng làm việc. Ông Thanh nhếch mép cười, cầm chén nước soi nghiêng, thấy mắt mình đục ngầu màu bã chè.
- Tôi không giận anh đâu. - Ông Thanh lắc đầu, nói nhỏ: - Anh làm gì mà tôi giận. Kể cả anh Thìn tôi cũng không giận chút nào. Tôi biết các anh là người tốt, rất tốt, có điều... - Ông Thanh ngừng nói, buồn rầu nhìn ông Lanh. Ông định nói: "Có điều các anh còn hạn chế quá nhiều về nhận thức. Người ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng mo cơm và tấm lòng cộng sản, còn trí tuệ chỉ là một cục đá vôi..."
- Anh nói tiếp đi. - Ông Lanh cũng buồn, nhìn vào  mặt Bí thư huyện ủy, thốt nhiên ông thấy buồn rười rượi.
Ông Thanh gật gật, thủng thẳng nói:
- Cuộc chiến đang hình thành. Tôi về nghỉ, còn các anh phải đương đầu với không lực Hoa Kỳ. Tôi biết rồi đây cuộc chiến sẽ đẫm máu nhưng cuối cùng chúng ta sẽ thắng. Chúng ta thắng vì chúng ta chính nghĩa, vì chúng ta có Đảng, có Bác Hồ, vì dân tộc ta đương nhiên là dân tộc anh hùng. Còn một lý do nữa, ấy là chúng ta có cái liều mạng của một anh nông dân cùng khổ. Đánh Mỹ thì liều mạng nhưng xây dựng chủ nghĩa xã hội thì xin các anh miễn cho cái đức tính này, sẽ hỏng bét hết... - Ông Thanh dựa hẳn vào thành ghế, ngửa mặt lên trần nhà: - "Dân có ruộng dập dìu hợp tác, lúa mượt đồng ấm áp làng quê. Chiêm mùa cờ đỏ ven đê, sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn". Ta có ruộng rồi, có cờ đỏ cắm trên đê rồi, có tiếng trống đi về rồi... nhưng lúa mượt đồng ấm áp làng quê thì chưa có, còn lâu mới có được, đừng vội tin là có rồi mà chủ quan... Thôi, chào anh tôi về.
- Ấy khoan, anh nói tiếp đi. Bây giờ tôi rất cần nghe anh nói.
Ông Lanh luống cuống ấn vai ông Thanh, như sợ ông biến mất. Đến lúc này, ông Lanh mới cảm thấy lẻ loi, đơn độc giữa bốn tòa nhà uy nghiêm lừ lừ nhìn ra đường cái. Xưa nay ông vẫn dựa vào ông Thanh để hành động: Ông Thanh nghiễm nhiên trở thành cái cẩm nang vạn năng của ông. Cái cẩm nang đang cháy, tự ông châm lửa đốt, đúng hơn, con rể ông đã trao lửa cho Đại úy Thìn, Đại úy đốt còn ông thì thò mồm vào thổi và hồn nhiên tin rằng thế là một nọc độc đã tiêu ma, xã hội chúng ta tươi sáng thêm một chút. Giờ đây mọi ý nghĩa còn nháo nhào, chưa hẳn đã rành mạch như trên. Phải đến hai mươi năm sau, khi chống gậy lập cập đưa tang người bạn già, cũng là bạn chiến đấu lâu năm của ông, ông mới ngẫm ngợi ra mọi nhẽ...
- Thôi, tôi về đây. - Ông Thanh vẫn cương quyết đứng dậy ra về.
Ông Lanh tiễn "đồng chí hưu trí" ra đến cổng, xúc động xiết chặt tay, giữ mãi bàn tay ông Thanh trong tay mình. Ông Thanh ngước lên trời, cố giữ cái giây phút cuối cùng từ giã cái nơi ông đã gắn bó bao nhiêu năm, với bao nhiêu tâm huyết. Trời vẫn xanh, xanh thẫm những hàng dương xanh chạy dọc lối vào bốn tòa nhà lớn, lất phất những lá cờ đỏ. Ông Thanh cười chua chát:
- Nước ta có đến 90% là nông dân. 10% còn lại là công nhân, tư sản, tiểu tư sản và các tầng lớp khác. Vậy mà chúng ta luôn luôn lo sợ bọn tư sản sẽ phá hoại xã hội ta. Nghĩ cũng buồn cười. Chính tư tưởng nông dân đang là căn bệnh nguy hiểm tràn lan trong toàn xã hội, xin anh nhớ cho điều đó. Nếu anh có tâm huyết làm một cái gì đó có ích cho đời sau, thì anh phải biết rõ căn bệnh này... Thôi, tạm biệt nhé. Nói dài đâm nói dại...
Xiết chặt tay ông Lanh thêm một lần nữa, ông bước thẳng. Được mươi bước, ông ngoái lại nhìn bốn tòa nhà kia, cay đắng nghĩ thầm: "kể cả anh nữa, anh Lanh ạ. Tư tưởng nông dân đã nhiễm thành máu rồi". Ở trong bốn tòa nhà kia, nơi mỗi người dân đi qua đều tỏ thái độ kính trọng vì tin rằng ở đó đều tập hợp những thành phần ưu tú nhất của xã hội mười vạn dân, nơi đẻ ra những chuẩn mực cho đời sau, nơi giữ cán cân công lý, nơi thông minh nhất, trong sáng nhất... Rất nhiều lần ông thấy nhiều người đứng thập thò ở cổng, hồi hộp tính toán không biết nên vào hay không. Khi được vào, họ đi rón rén, sắc mặt biến đổi lạ lùng! Sợ và hồi hộp và ngơ ngác... Họ đang đến nơi ưu tú nhất, quyền lực nhất, thông minh nhất. Họ bỗng thấy mình nhỏ bé trước bốn tòa nhà hùng vĩ kia. Còn trong bốn tòa nhà đấy, ông biết lắm, chỉ có ông là biết rõ nhất, còn đầy rẫy những kẻ ngu dốt, những thằng vô tích sự suốt ngày phán bậy, những tên quan liêu ngậy mùi, và gần đây đã mọc lên những thằng cơ hội bẩn thỉu... Những người tốt cũng có, dù ít nhưng vẫn có, sau nhiều cuộc đấu tranh đã rơi rụng dần, hoặc chán nản nuốt nước bọt ngậm thinh, lặng lẽ quan sát đám người nhố nhăng kia làm việc, đôi khi uất quá họ gồng lên cố sức chống trả thì lập tức bị tóm cổ. Ví như ông đây, suýt nữa thì bị tóm cổ... Có lần ông tâm sự điều này với một cán bộ có tâm huyết, người này nói: "Anh bi quan vậy chớ nếu lãnh đạo huyện chẳng ra gì, thế tại sao các phong trào các anh đều hoàn thành tốt?". Ông thở dài, khẽ lắc đầu, hỏi lại: "Thế còn nhân dân thì sao?" - "Ờ nhỉ! Còn nhân dân nữa các ông ạ. Lâu nay ta cứ làm việc, làm việc, làm việc... mà quên mất vì ai mà làm việc. Nhân dân to lớn thế mà quên bố nó mất! Hỏng! Hỏng!" - Bạn ông vỗ đùi đen đét.
Ông mỉm cười. Ờ nhỉ, đôi khi ông cũng quên bố nó mất. Hình  như ông làm việc vì các chỉ thị của cấp trên dội xuống, làm để được khen, để được nâng lương tiến chức, còn nhân dân to lớn thế mà quên bố nó mất...
- Một nghìn bảy trăm tám mươi tư bước! - Bỉ kêu to. Ông quay lại đã nhìn thấy Bỉ đứng sau lưng mình, nhăn răng cười:
- Chào anh! Ai đi theo tôi từ lúc nào thế? - Ông bắt tay Bỉ và chợt thấy mình đang đứng trước cổng nhà.
- Em đi theo anh và đếm các bước chân của anh. Từ cổng huyện ủy đến cổng nhà anh. Một nghìn bảy trăm tám mươi tư bước.
- Ha ha... Đếm làm gì? Anh đếm để làm gì? - Ông thấy vui, lòng nhẹ bớt đi một chút.
Bỉ không nói, sờ mép tủm tỉm cười. Ông Thanh mời Bỉ vào nhà chơi, Bỉ lắc đầu:
- Thôi em về, khi khác em đến chơi, nói chuyện tào lao với anh cho vui. Và để chứng minh cho anh là, em tất nhiên không phải thằng hèn đâu nhé!
- Thì đã có ai nói anh hèn đâu?
- Anh không nói nhưng anh biết. Anh biết rõ tận chân tơ kẽ tóc của từng người dưới quyền anh nhưng anh không nói. Hì hì. Anh khôn lắm. Anh không hèn như em nhưng anh khôn lắm, khôn quá hóa hèn.
Bỉ vừa nói vừa kéo ông Thanh vào nhà. Anh láu táu pha ấm chè đặc, đổ nước sôi tung tóe, làm vỡ mất một cái cốc.
- Gì mà vội vàng thế?
- Ấy! Sắp họp Ủy ban. Em về không đúng giờ người ta trị em bỏ mẹ. Thời buổi này vui lắm, chỉ cần đi đúng giờ, chỉ cần có mặt, rồi phát biểu vài ba câu vô thưởng vô phạt là xong. Vậy là em đạt lao động tiên tiến, hì hì!
Ông Thanh thở dài:
- Xưa nay chưa nghe anh nói giọng này bao giờ.
- Chứ sao! Nói mà chết. Có họa là thằng ngu. Bây giờ anh hưu trí rồi em mới thưa, chứ cách đây hăm bốn tiếng đồng hồ, em còn sợ anh xanh mặt! Anh uống nước đi... Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân. Chơi với mấy anh bần cố nông, em khiếp lắm! Vậy là em co vòi lại cười cười, một dạ, hai dạ, chịu khó nghe người ta giải thích cái điều mà đáng ra mình làm thầy người ta, rồi nói giọng thật thà: "Dạ em hiểu. Có anh nói em mới sáng mắt ra." Hà hà! Anh thấy em có tài không? Anh uống nước đi.
- Đó cũng là cơ hội. Im lặng cũng là thái độ cơ hội. - Ông Thanh lắc đầu, nhấp một ngụm nước, nói tiếp: - Tôi cũng là thằng cơ hội vì tôi im lặng.
- Dạ! Hoan hô anh! Nghe anh nói em sướng quá! Thôi thôi... em về họp đây.
Bỉ phủi đít quần "dọt" về, nhanh hơn chớp. Dọc đường về anh lẩm bẩm: "Mẹ, cú này phải đấu với Trần Hới. Nếu không, nó tiêu diệt hết người tốt cho mà xem! Phải đấu chứ, sợ gì mà không đấu! Cùng lắm thì bố mày về hưu, sợ đếch gì..."
Bỉ lao vào cổng ủy ban, ngực nóng ran với ý chí chiến đấu cho lẽ công bằng. Anh dựng xe đạp, đi thẳng vào cuộc họp. Đám đông những người dự họp đã đến đủ, mặt ai nấy đều nghiêm trang. Trần Hới cầm điếu thuốc lơ đễnh nhả khói bất chợt liếc sang Bỉ. Bỉ chột dạ: "Nó nghi mình rồi" và rụt cổ chui vào góc trong phòng, ngồi thu lu như thế từ đầu đến cuối cuộc họp.










Chương chín



Chiến tranh đến. Sau một trăm hai mươi chín ngày thị trấn Linh Giang nát tan như một cái bánh đa dưới sức tàn phá của một quả đấm con quái vật khổng lồ. Trước hết là bệnh viện, khu điều dưỡng: sau đó là bốn tòa nhà cao lớn của huyện ủy và ủy ban; sau nữa là các khu đông dân cư, các công ty xí nghiệp, cửa hàng bách hóa tổng hợp... cuối cùng là một bãi đất trắng, lổn nhổn gạch vụn, sắt thép, những cột nhà cháy ngổn ngang, những hố bom chồng lên những hố bom. Thị trấn hoang lạnh như một bãi tha ma. Tất cả đã sơ tán ra rừng phi lao, bạch đàn sau thị trấn. Rồi rừng bạch đàn, phi lao cũng cháy rụi. Người ta chạy lùi xa, lùi xa mãi cách thị trấn bảy cây số. Đến đây không ai chạy nữa. Chiến tranh đã cháy lây lan khắp nơi, ngày nào cũng ngun ngút khói lửa, vậy còn biết chạy đi đâu? Người ta đã liều mạng cắm lều trên bãi cát trắng băng, nhà này tiếp nối nhà khác lần lượt được mọc lên, kiên gan đối chọi với cái chết. Thế mà hóa hay, một thời gian khá dài máy bay Mỹ không tấn công đến những túp lều này, chúng tập trung oanh tạc bến phà sông Linh, dăm bảy cái cầu quanh thị trấn, đặc biệt là các khu chôn giấu dầu lửa. Ngửi thấy nơi nào có mùi dầu là chúng bu bám dai dẳng, ngày này qua ngày khác, tốp này đến tốp khác, bom đạn mù trời, cho đến lúc phuy dầu cuối cùng bốc cháy.
Lúc này vào khoảng năm giờ chiều, bãi dầu phía khu điều dưỡng bị phát hiện. Sau đợt tấn công đầu tiên, tốp F.4H đã xăm trúng một phuy dầu 2.000 lít. Cháy! Cháy ngùn ngụt, một đụn khói đen chọc thẳng lên trời.

Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy từ bụi dứa vụt ra, đứng như trời trồng ngóng về thị trấn. Ông đang đứng cách thị trấn hai mươi bẩy cây, giữa một vùng dứa dại. Phía thị trấn đang đùn lên những đụn khói đen. Cháy! Lại cháy! Bây giờ thì hết lý do để ông quay trở lại nữa. Cái đám cháy kia sẽ kéo dài mấy ngày, có khi mấy tháng. Thật kinh khủng. Ông ngồi bệt xuống cát, ngơ ngác ngó xung quanh. Đây là chỗ nào nhỉ? Ngút ngàn cây dứa già mọc cao hơn đầu người đứng lặng phắc trước nắng chiều. Quả là nơi lý tưởng để ẩn nấp cho hết cuộc chiến tranh. Liệu chiến tranh có thể kéo dài bao lâu nữa? Ông không biết! Ông chẳng nhớ gì hết, hai tai ù ù những âm thanh quái đản, trước mắt ông đang nhảy múa những con lân tinh... Ông đói, đói và mệt. Ờ nhỉ, đói khiếp đi được. Ở đây chẳng có gì nhá được. Mẹ khỉ, nơi nhiều khoai lắm lúa thì bom đạn mù trời, nơi yên tĩnh tuyệt vời thì cứt bò khô cũng không có. Ông chống gối đứng dậy ngó ngu ngơ xung quanh. Một dòng mồ hôi chảy xuống miệng. Liếm, liếm, liếm... ông liếm từng giọt mồ hôi mặn chát. Càng liếm càng thấy đói, đói đứt ruột đứt gan, đói muốn hét váng lên được. Đã hai ngày ông không có gì bỏ bụng. Thỉnh thoảng, dọc đường bỏ chạy, ông có nhặt được vài củ khoai sống, một ít rau cỏ nhét đầy bốn túi áo "Tôn Trung Sơn", định bụng sẽ ăn vào lúc đói nhất. Nhưng tất cả đã rơi rụng đi đằng nào hết. Cứ một trận bom, bất kể xa gần, là ông vắt chân lên cổ chạy bán sống bán chết. Ông chạy trốn đã bao nhiêu ngày? Ông không nhớ nhưng hết thảy dân thị trấn thì nhớ như in - một trăm hai mươi chín ngày chứ còn bao nhiêu nữa.

Trận bom đầu tiên sau "cuộc chiến tranh hai mươi phút" đã kéo dài từ chín giờ sáng đến bốn giờ chiều. Lúc bốn chiếc F.4H bay từ Đèo Ngang chọc thẳng vào thị trấn, kẻng báo động bốn phương tám hướng khua vang, ông chạy vọt ra ngõ, ngoái cổ dặn vợ con:
- Mẹ con nó xuống hầm đi. Cứ bình tĩnh...
Nói rồi ông vụt thẳng tới Ủy ban. Đến cách Ủy ban chừng bốn trăm mét, ông đứng khựng lại, ông thấy cả bốn chiếc hình như đang nối đuôi nhau đâm thẳng xuống ngực ông. Ông té xấp xuống đường, hai tay ôm mặt. Một loạt bom kéo một vệt dài từ cửa hàng bách hóa tổng hợp xuống cầu Vĩnh Tét làm rung chuyển thị trấn. Ông nằm chết lặng giữa đường, mồ hôi ướt đẫm. Rồi ông vùng té chạy, ông chạy cuống cuồng trên đường cái quan. May quá, có một cái hầm tròn đào dở nông choèn nằm sát cột điện. Ông chúi đầu xuống, nằm khoanh tròn dưới hố cho tới chín giờ đêm. Người ta đổ nhào ra đường tìm người chết, người bị thương, bị bom vùi. Nhà cháy rừng rực. Có đến hàng ngàn người lao ra dập lửa. Khoảng mươi phút lại có tin thêm một người chết... xôn xao khắp thị trấn. Tất cả bị xáo trộn hết, không ai nghe ai, không ai chỉ huy ai, mạnh ai nấy làm, tất cả cố gồng lên dập tắt đám cháy lớn nhất trong lịch sử thị trấn. Đến sáu giờ chiều không khí dịu lại, mọi người ngồi nghỉ ngơi, lúi húi thổi lửa làm cơm, ồn ào những câu chuyện khiếp đảm trận bom vừa rồi. Có hai mươi chín người chết, bốn mươi người bị thương. Nức nở những tiếng khóc tang thương. Hàng xóm lục đục đến thăm viếng. Những xác chết liệm vải trắng, máu đỏ thấm ra ngoài. Hương khói nghi ngút, những gương mặt đau đớn đang kêu gào, những người thân cúi gập lạy tạ...

Thế còn Chủ tịch thị trấn? Thôi rồi! Ông ấy ở đâu? Mọi người bổ đi tìm, đào bới săm soi khắp nơi, không thấy. Chết rồi. Nguy rồi. Làm ăn thế nào mà đến giờ không tìm được ông Chủ tịch. Vợ ông khóc: "Ối ông ơi, ông có sống khôn thác thiêng thì ...". Ủy ban họp, Đảng ủy họp ra quyết định bằng mọi cách phải tìm cho ra Chủ tịch thị trấn hiện nằm ở đâu. Người này nói: "Lúc tám giờ sáng tôi thấy...". Người kia nói: "Đến mười giờ trưa hình như tôi thấy...".
- Thôi! Không bàn nữa! Đi tìm. Chia ra chín nhóm, phân tán ra, thắp đuốc lên!
Vừa lúc ông Huy lù lù xuất hiện. Mọi người ồ lên:
- Bác Huy! Bác Huy đây rồi!
Vợ ông nhào đến ôm lấy hai đầu gối ông mà tủi hờn:
- Thế mà tôi cứ tưởng mình...
- Ối giời ơi suýt chết!
Ông phịa ra ông bị bom vùi như thế nào, lấy que chọc lên làm hiệu với mọi người ra làm sao, cuối cùng ông đã ráng sực mà chui lên.
- Chui mãi rồi cũng lên được. - Ông cười khơ khơ khơ.
Mọi người xuýt xoa khen ông giỏi, thông minh, kiên cường chống chọi với cái chết... Ông gãi đầu:
- Tôi ngồi dưới hầm nóng ruột thấy mẹ không biết bà con làng xóm ra sao...
Tất cả lại ồ lên. Người khen thật lòng có, người nịnh có, về tinh thần vì bà con làng nước của Chủ tịch thị trấn. Ông cười tít mắt.
Phải đến vài trận bom sau người ta mới chắc mẩm ông Huy đã phịa ra vụ bom vùi để chữa thẹn. Thực tình ông đã khoanh tròn dưới hầm cá nhân nông choèn đến chín giờ đêm mới ló mặt lên. Nhiều người đã bắt được quả tang ông khi thì chui trong cái cống nước, khi thì rúc dưới gầm bàn, khi nằm co ro dưới cái ao cạn nước... mỗi bận có máy bay oanh tạc. Ông khiếp đảm đến nỗi trận bom đã dứt từ lâu mà ông vẫn chưa dám chui ra khỏi nơi ẩn nấp, tay chân mồm mũi lưng bụng cứ run lên bần bật. Ông là người đầu tiên kéo vợ con chạy mãi, chạy mãi đến bảy tám cây số vẫn chưa dám dừng. Bà Hiền, vợ ông, mếu máo:
- Mình là Chủ tịch mà chạy thế... Còn ngước mặt lên nhìn bà con làng xóm làm sao?
Ông quát:
- Ông đấm c. vào cái Chủ tịch. Ông chết, có lấy cái Chủ tịch mà cứu sống ông được không hả?
Đại úy Thìn đã tìm ông. Đại úy giận lắm, không ngờ Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy lại hèn nhát đến thế. "Phải củng cố tinh thần tiến công cách mạng cho tay này", Đại úy ngẫm nghĩ và bỏ chút thời gian quý báu trong cuộc chiến căng thẳng này, mầy mò đi tìm ông. Đại úy nói:
- Anh nghĩ sao về ý chí chiến đấu của người cộng sản?
Ông Huy xua tay:
- Thôi đi bác ơi, tôi chán cái ý chí của bác lắm rồi. Tôi sợ lắm. Trước đây các bác nói người cộng sản là xương sắt da đồng, tôi tin. Bây giờ... Mẹ! Bố láo. Chỉ một quả rốc két là nát như cám...
Đại úy mặt nóng phừng phừng, quát to:
- Đồng chí Lê Đức Huy.
Ông Huy rướn cổ gào to:
- Tôi không đồng chí, đồng chiếc gì hết nữa. Tôi chết... vợ con tôi ai lo? Bác có sống thay tôi được không? Mà tôi là Cu Lùn, Cu Lùn! Bác hiểu chưa? Không Lê Đức Huy, Lê Đức Hiếc gì cả!
- Đồ hèn! Mày là thằng hèn!
Đại úy nghiến răng ken két, bước ra khỏi nhà. Thế là hết, con người tin cậy cuối cùng của Đại úy đã bỏ chạy. Đã bỏ chạy tất cả, không đúng, tất cả đã bỏ rơi Đại úy. Đầu tiên là người vợ xinh đẹp, sau đó là đứa con gái duy nhất. Họ đã bỏ Đại úy ra đi không chút luyến tiếc. Rồi người bạn chiến đấu của Đại úy, Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, giờ đây gặp Đại úy mặt lạnh lùng, khinh khỉnh. Người cuối cùng mà Đại úy luôn luôn tin tưởng đấy là con người trung thành nhất, ấy là Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy, đã trở thành một con chuột nhắt, suốt ngày chui nhủi trong các hầm hào, công sự, bụi rậm không dám ló mặt ra. Từ chỗ là người có vị trí quan trọng nhất thị trấn, Lê Đức Huy đã trở thành kẻ hèn nhát bậc nhất, hèn nhát hơn cả đám tiểu tư sản có trong danh sách hai trăm chín mươi tám người bị nghi vấn là những kẻ chống đối cách mạng. Bởi vì hai trăm chín mươi tám người kia, khi chiến tranh đến, người thì nhập ngũ, kẻ thì cầm súng đánh nhau với không lực Hoa Kỳ, số còn lại đều lao vào lửa để chữa cháy, cứu thương... Có người đã ngã xuống đẹp như một người anh hùng. Còn con người ba đời cùng khổ kia đã bỏ chạy ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến, ném tất cả chức vụ, uy tín, Đảng Đoàn vào sọt rác để cao chạy xa bay.
- Tôi là Cu Lùn! Bác hiểu chưa? Không Lê Đức Huy, Lê Đức Hiếc gì cả!
Thế đấy! Không còn biết sỉ nhục là gì nữa. Chủ tịch thị trấn ngày ngày tìm cách trốn bom đạn. Ở đâu ông cũng không an tâm, hầm nào ông cũng thấy không chắc chắn. Ông trốn nhờ hầm nhà này vài giờ, lại chui sang hầm nhà kia... Cứ thế, cứ thế. Mỗi bận bà Hiền xách cơm tìm ông ngót nghét vài giờ đồng hồ mới thấy. Nhiều khi bà tính cắn lưỡi mà chết vì không chịu nỗi sự dèm pha cười cợt của người đời. Ông trở thành biểu tượng có một không hai trong thị trấn, các giai thoại về sự hèn nhát của ông phát triển lây lan đến độ không còn quản lý được nữa. Bà Hiền cúi gầm mặt trước mọi người, cúi gầm như thế ngày này qua tháng khác. Cho đến một ngày, cách đây hai ngày, ông biến mất tăm, không ai còn thấy nữa. Bà Hiền vừa cười vừa khóc. Cười, vì nhẹ nợ. Khóc, vì dù sao cũng mất một người chồng. Thế là hết, là chấm hết. "Ối ông ơi là ông ơi..." Bà lu loa một chập rồi ngửa cổ cười dài, vô duyên như một con vượn cái...
Bây giờ là năm giờ chiều. Ông ngồi giữa một rừng cây dứa dại, thè lưỡi liếm mồ hôi, liếm, liếm, liếm... Ông liếm từng giọt mồ hôi mặn chát. Càng liếm càng thấy đói, đói đứt ruột đứt gan, đói muốn hét váng lên được. Ông ngồi rũ ra, ngó ngơ lên ngọn cây dứa dại. Bỗng ông thấy một con rắn mối. Ông đứng dậy, rón rén, rón rén, hồi hộp tiến tới gần. Chộp! Trượt. Chộp! A ha, ông túm được cổ nó rồi. Một con rắn mối béo ngậy. Ông ngó sang các cây dứa dại khác, ối chao nhiều quá, nhiều quá. Bao nhiêu là rắn mối. Thế là ông sống rồi, sống được rồi, lại đàng hoàng chứ không bỡn. Ở đây an toàn lắm, an toàn lắm. Lại có cái để nhá, khỏi phải ăn xin. Rõ ràng Cu Lùn ngày này khác hơn Cu Lùn ngày xưa một bậc. Ông cười tít mắt.

                                         *

                                *              *



Đại úy Thìn đạp xe qua thị trấn lổn nhổn gạch vụn, tràn ngập hố bom, tìm về thị trấn lúp xúp những lều tranh mọc la liệt trên bãi cát trắng tinh. Cuộc chiến đã đi vào giai đoạn quyết định. Không còn bóng dáng thị trấn cổ kính, ẩn khuất dưới những tàng cây cổ thụ bên sông Linh. Chỉ còn những ụ pháo mới lên, những chiếc xe cháy cong queo, những đống gạch vụn ngổn ngang, những hố bom mới đùn lên... Đại úy thở dài, ông thấy bất lực, lần đầu tiên trong ba mươi năm mặc áo lính ông thấy bất lực. Đại úy thấy mình đã kiệt sức trong khi chưa có dấu hiệu gì báo cho ông hay cuộc chiến sẽ tàn. Với Đại úy và trung đoàn pháo năm bảy li của ông, đây là cuộc chiến đấu không cân sức. Có cái gì bí hiểm, vượt ra ngoài khả năng hiểu biết của Đại úy, làm cho ông lúng túng. Sáu chục trận chiến đấu của trung đoàn ông với máy bay Mỹ đã không đem lại chiến thắng gì, dù nhỏ. Số thương vong tăng đến mức báo động. Đại úy đã gồng mình để chống cự với tất cả các tình huống nguy hiểm của cuộc chiến. Nhưng vô hiệu. Càng nóng ruột vì sự thua thiệt Đại úy càng gồng lên, càng gồng lên càng thua thiệt. Nhiều khi uất quá, Đại úy gồng lên đau đớn và tức tối, rồi ôm mặt khóc thầm sau mỗi lần chiến bại. Vinh quang Đại úy dành được trong một trăm hai sáu trận thắng Pháp năm xưa đã bị sáu mươi bảy trận chiến bại ngày nay làm lu mờ. Thế đấy! Đời thằng lính là vậy! Cái chết và vinh quang chỉ gần nhau gang tấc, và vinh quang ngày hôm qua chẳng giúp ích gì cho danh dự của anh trong trận chiến bại ngày hôm nay.
Cule trông thấy Đại úy cắm cúi đi về phía nhà mình liền hét toáng lên:
- A Đại úy Thìn, bác Thìn! Thùy Linh ơi, ba đến!
Thùy Linh vụt đứng dậy, chực chạy ra, nghĩ thế nào cô lại ngồi xuống, lặng lẽ nhìn ra.
Đại úy bước vào, gật đầu chào Cule:
- Vẫn mở quán thịt chó à?
- Vẫn, thưa bác em là em không thua Đế quốc Mỹ đâu. Bác xem khẩu hiệu của em kìa...
Cule chỉ lên vách. Có hai hàng khẩu hiệu kẻ ngay ngắn. Dòng bên trái đề: "Quán thịt chó Cule quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!". Dòng bên phải đề: "đ. Mẹ Đế quốc mỹ". Đại úy chỉ khẩu hiệu bên phải phê bình:
- Thiếu văn hóa!
Cule chập hai tay, khúm núm thưa:
- Đối với thằng Mỹ, chửi thế mới đã. Nói năng lịch sự với nó không ăn thua.
Đại úy nhếch mép cười. Thùy Linh bước ra, hỏi khẽ:
- Ba mới về?
Đại úy quanh lại, vồn vã:
- Ừ, ba đi tìm con đây. Cũng phải xem con sinh sống ra sao. Thú thực dạo này ba bận quá...
- Lúc nào ba chả bận. - Thùy Linh nói, mặt lạnh tanh.
Đại úy cười, xoa đầu Thùy Linh, cố tình làm lành:
- Kể ra ba có lỗi với con.
Thùy Linh lắc đầu, mắt rực sáng:
- Ba không có lỗi gì với con cả. Ba có lỗi với nhiều người khác.
Đại úy nghiêm mặt:
- Người khác là người nào?
Thùy Linh ngước lên, vẫn đôi mắt rực sáng dọi thẳng vào mắt Đại úy:
- Đến bây giờ mà ba còn hỏi! Thế mẹ con đâu? Chú Tư đâu? Bác Thanh đâu?
Đại úy cười khẩy:
- À, họ là những phần tử chống Đảng. Cách mạng đã trừng trị theo pháp luật. Ba không có lỗi gì với họ hết.
Thùy Linh đứng dậy, bước lùi mấy bước, đứng tựa vào vách hổn hển thở. Cô buồn nôn. Có cái gì ghê tởm đang ứ đầy trong cổ. Cô hét lên, toàn thân run bắn:
- Thế thì ba đi đi! Ba đi đi! Ba... cút đi!
- Câm mồm! - Đại úy trợn mắt quát lớn: - Đồ mất dạy!
- Con phải nói! - Thùy Linh khóc òa. Cô nghẹn ngào khóc, kể: - Mẹ con chết rồi, ba biết chưa?
- Cái gì?
- Mẹ con chết rồi, nhảy xuống sông tự vẫn! Ba mừng chứ, phần tử chống Đảng đã chết... ba mừng chứ? Hả? Ba mừng chứ?
Đại úy run lên, đứng như trời trồng, ông không biết nói gì, làm gì. Ông bước ra khỏi nhà, chạy. Ông chạy tơi bời trên trảng cát, ngực đẫm mồ hôi. Mệt quá. Khát quá. Ông cứ chạy, chạy miết. Đến đơn vị vào lúc năm giờ chiều, ông quỵ xuống trước ba-ri-e sở chỉ huy trung đoàn. Hạ sĩ gác cổng bỏ vị trí chạy ra đỡ ông dậy, hét to:
- Trung đoàn trưởng bị thương! Cứu thương đâu? Cấp cứu!

                                         *

                                *             *



Cule dìu Thùy Linh vào buồng, luống cuống pha cho cô một cốc nước chanh:
- Uống đi cháu. Phải bình tĩnh...
Thùy Linh đỡ lấy cốc nước chanh uống ừng ực. Cô ngước lên, đờ đẫn:
- Bác bảo bây giờ cháu phải làm gì?
- Cứ ở đây với bác.
Cule chặt tay vào không khí, tuyên bố. Thùy Linh lắc đầu:
- Đã đến lúc cháu muốn chết...
- Ỉa mồm! Bom đạn đầy trời, cháu cứ nói gở.
Thùy Linh ngã xoài xuống giường, khóc rưng rức. Còn ai để cô có thể bày tỏ được nỗi niềm? Hoàng đã nhập ngũ. Nhập ngũ vào đúng năm giờ sáng hôm qua. Anh bỏ nhà ra đi, tìm đến một đơn vị bộ đội nào đó, cho đến giờ vẫn không có tin tức gì. Không ai cho anh vào bộ đội thì anh trốn. Anh đã chán ngấy cái cảnh suốt ngày tha thẩn ở nhà, ăn và trốn bom đạn... Thêm vào đó, ba anh như người mắc chứng tâm thần, suốt ngày ngồi dính chặt vào ghế không đi đâu, nhìn vào bóng mình mà nói. Nói miết... đến ngủ ông cũng ngủ ngồi như thế. Bừng tỉnh, dụi mắt một cái, lại nhìn vào bóng mình mà nói. Có lẽ bao nhiêu năm nay ông đã nhẫn nhục im lặng trước mọi chuyện ở đời. Bây giờ ông tự thấy cần thiết phải nói. Ông cho cái bóng của ông là người khác, người khác chứ không phải ông, và hôm nay cái bóng là người này, ngày mai nó là người khác. Vậy là ngày nào ông cũng tâm sự được một người. Ông nói rất nhỏ, đủ cho "người đó" nghe về tất cả các quan điểm của ông, về cách nhìn người, cách đánh giá các quy luật đời sống, về các nghị quyết vô bổ, ông biết là vô bổ mà ông vẫn ký, về các bài diễn văn vỗ về dân chúng của ông, về cái trò phù phiếm cờ đèn kèn trống mà ông đã bịa ra để cố chứng minh đời sống chúng ta mới tốt đẹp làm sao, về các tràng vỗ tay lừa ông và ông đã lừa mọi người để giành được các tràng vỗ tay, về những kẻ xun xoe ông và ông đã xun xoe những kẻ khác, về các con đường làng rợp cờ đỏ đón ông và những cái bếp lạnh tanh lèo tèo vài củ khoai nướng dở, về sự nhất trí mà ông đòi hỏi mọi người và những kẻ đã bị ông kỷ luật về tội không nhất trí, về những kẻ có học nhưng ương bướng và những thằng ngu luôn sẵn sàng nhất trí cao ý kiến của ông... Ông nói nhỏ, rất nhỏ, vì vẫn sợ người khác nghe lọt sẽ nguy hiểm. Nói nhỏ cũng là nói, còn hơn im lặng.Hai sáu năm ông đã im lặng, rất nhiều người hỏi ông nhưng ông đã im lặng, giờ chẳng ma nào hỏi thì ông nói. Càng nói càng thích nói, càng có cảm tưởng nhiều người nghe ông nói. Khi ông bừng tỉnh là đã có một người trên vách chờ ông rồi...
Riêng Hoàng, anh đã hết sức chịu đựng sự lạnh lẽo lẫn chút ma quái trong căn nhà này. Bao nhiêu lần anh viết đơn nhập ngũ, bấy nhiêu lần anh bị gạt ra. Lý do thật đơn giản: anh là con trai một, con một đồng chí Bí thư huyện ủy về hưu không có người đỡ đần. Lại nữa: anh bị kỷ luật vì tội hủ hóa với Thùy Linh. Người ta không bao giờ chấp nhận một tên hủ hóa đứng vào hàng ngũ những người lính dám hy sinh cho Tổ quốc. Sau lần Hoàng đưa thư vĩnh biệt của Họa sĩ Tư đến cho Thùy Linh và bị Thùy Linh đuổi ra khỏi nhà, đã làm anh chán nản đến kiệt sức. Hoàng không thể hiểu vì sao Thùy Linh lại nổi giận với anh. Anh có tội gì? Sự thật vẫn là sự thật. Vô lẽ anh không đưa thư đấy cho Thùy Linh thì mẹ cô vẫn sống hay sao? "Cút ngay! Đồ... độc ác! Cút đi! Tôi đã bảo là cút đi mà. Tôi ghê tởm lũ các người! Tôi ghê tởm..." Bốn năm sau, khi đã trở thành một người lính dạn dày sương gió, Hoàng mới hiểu đó là phản ứng của nỗi đau, bởi vì Thùy Linh không bao giờ dám tin sự thật khủng khiếp kia, cô kinh sợ sự thật ấy dội vào đời cô, không ngờ chính anh đã làm cái việc dại dột đó. Đó là bốn năm sau, còn bây giờ Hoàng cảm thấy bị xúc phạm, trái tim non nớt của anh chưa quen chịu đựng các chấn động lớn, giờ đây đã bị thương... Anh lánh mặt Thùy Linh. Nhiều lần Thùy Linh tìm anh đều bị anh từ chối, "miễn tiếp xúc". Lần cuối cùng là buổi chiều nóng nực cách đây năm ngày, Thùy Linh như từ dưới đất mọc lên, đứng sững trước mặt Hoàng. Anh không kịp lẩn trốn, buộc đứng lại hỏi:
- Em đi đâu?
- Đi tìm anh. Nếu anh thích trốn em thì cứ việc... Em cứ đi tìm. Đố anh trốn được chỗ nào mà em không nom thấy.
Thùy Linh nói, môi run run. Cô muốn khóc, muốn khóc quá. Ôi, Hoàng ơi, Hoàng ơi, Hoàng ơi... Sao ngốc thế? Sao ngốc thế? Em yêu anh, em nhớ anh đến cháy gan ruột thế mà anh cứ lạnh tanh khi thoáng thấy bóng em. Tại sao thế?
Hoàng cười:
- Tìm tôi làm gì? Tôi ghê tởm thế, cô còn tìm tôi?
Thùy Linh đứng cúi đầu. Cô khóc thầm. Những giọt nước mắt cay đắng chảy ròng ròng trong ngực cô. Hoàng bỏ đi, hai tay đút túi, mặt vênh váo, khinh đời.
- Anh Hoàng!
Thùy Linh kêu to, đuổi theo. Cô níu áo anh, lắp bắp:
- Anh đừng giận... Em có lỗi... em xin... đừng giận em...
Hoàng nhìn cô khinh khỉnh:
- Thùy Linh chẳng có lỗi gì cả. Em rất sạch sẽ thơm tho vậy làm sao mà có lỗi? Chỉ có tôi, ghê tởm như tôi, mới có lỗi...
- Thôi mà, em xin... - Thùy Linh khụy xuống, tay bíu áo Hoàng, mặt ngước lên thành khẩn như con chim trước tượng chúa. Thế mà Hoàng dứt áo bỏ đi. Dù Thùy Linh van vỉ, anh vẫn hai tay đút túi quần thủng thẳng bước đi, mặt vênh váo khinh đời. Thùy Linh đứng ôm đầu. Tất cả đều đảo lộn. Những đụn cát xoay vòng, những cây phi lao chọc ngọn xuống đất, mặt trời quay tít mù... Cô gục xuống, lịm dần giữa bãi cát nóng rực. Đến sẫm tối, một người cúi xuống, bế xốc thân thể nóng rực của cô, lúi cúi đi trong bóng tối. Có tiếng máy bay! Pháo sáng dọi ánh sáng vàng ợt tỏa khắp. Người đó bế Thùy Linh xuống hầm. Tối quá. Không nhìn thấy gì cả. Hình như cô đang bay, hình như thế. Cô là chim, Hoàng cũng là chim. Cả hai bay bay bay. Cô thì gọi: "Mẹ ơi! Mẹ ơi!", Hoàng thì gọi: "Thím ơi! Thím ơi!". Vang cả núi rừng. Cô gặp mẹ, ôi chao mẹ vẫn trẻ, vẫn đẹp như ngày xưa. Hai mẹ con ôm nhau. Mẹ cô hôn cô điên dại. Hôn hôn hôn... Cô ngột thở, lại hôn hôn hôn... Và Hoàng nữa, Hoàng cũng hôn hôn hôn... Cô và Hoàng vùi trong cát, vùi trong nước... rối rít trong cuộc tìm kiếm đực cái muôn năm của người đời. Thùy Linh rên rỉ trong hầm tối, và khóc, và cười, và cắn vào vai Hoàng, và lịm đi. Rạng sáng, hai khối ánh sáng từ hai cửa hầm từ từ lăn dần vào. Thùy Linh bừng tỉnh, cô nhìn cô, tràn trề một màu da trắng nõn. Cô nhìn sang bên cạnh, bỗng kinh hoàng rú lên:
- Thầy!
Trần Hới lật người cười mỉm:
- Em đừng hét to như thế.
- Thầy... - Thùy Linh run bắn người, mặt tái nhợ: - Thầy... đã... làm... cái... trò... gì?
Cô vội vã mặc quần áo chạy ra khỏi hầm, lao như điên về quán thịt chó Cule. Mặt trời lên đỏ rực. Trời xanh thế kia nhất định lại bom rơi đạn nổ, một ngày chết chóc nữa lại đến...


                                                  *

    
                                         *              *



Đại úy Thìn bị điều động lên làm Phó ban tác chiến sư đoàn. Đại úy thừa biết đây là hình thức cách chức nhẹ nhàng tình cảm nhất. Đại úy ngậm đắng nuốt cay xách ca-táp lên sư đoàn, lẳng lặng ngồi vào ghế phó ban tác chiến - một cái ghế hữu danh vô thực. Không ai dám nói với Đại úy rằng ông là một trung đoàn trưởng kém năng lực nhất, rằng ông không còn phù hợp với cuộc "chiến đấu hiện đại" ngày hôm nay, rằng sự liều mạng mà nhờ đó ông đã đánh Đông dẹp Bắc thời kháng Pháp đã trở thành nguyên nhân của liên tiếp các trận chiến bại của trung đoàn do ông chỉ huy và làm tăng nhanh số thương vong đến mức báo động. Sáu mươi bảy trận chiến đấu với máy bay Mỹ, dưới sự chỉ huy của ông, trung đoàn ông đã tiêu tốn một khối lượng đạn bằng ba trung đoàn bạn chập lại, số tử vong và thương vong đạt đến con số kinh ngạc: bằng 70% quân số tử vong và thương vong trong sư đoàn. Đã thế, đắng cay thay, trung đoàn không bắn cháy được một chiếc máy bay nào, các khu vực do trung đoàn bảo vệ đều nát như tương, nghĩa là chẳng bảo vệ được gì cả. Thế thì Đại úy bị cách chức là việc đương nhiên. Nhưng vì vầng hào quang mà Đại úy giành được thời kháng Pháp sáng chói đến nỗi sư đoàn trưởng, nguyên là cấp dưới của Đại úy, không dám mở mồm nói với Đại úy rằng ông là kẻ bất tài hoặc hết năng lực chỉ huy; và nếu cứ để Đại úy liều mạng đánh nhau với tàu bay Mỹ như thời "mã tấu tầm vông" thì nguy to, rốt cuộc chẳng lấy đâu quân số bổ sung cho Đại úy.

Quyết định điều động Đại úy lên ban tác chiến sư đoàn được đưa ra vì một lý do khác: ban tác chiến quá cần một sĩ quan dạn dày kinh nghiệm như Đại úy, nếu không có Đại úy hỗ trợ, ban tác chiến sẽ rất lúng túng khi phải tham mưu cho Sư đoàn một lúc nhiều phương án chiến đấu cho bốn trung đoàn thuộc quyền chỉ huy của sư đoàn. Đại úy thừa hiểu đây là cách nói khéo của vị sư đoàn trưởng vốn rất kính nể ông. Đại úy lên ban tác chiến được một tuần, người ta vẫn tỏ thái độ trân trọng "xin anh có ý kiến" nhưng không ai nghe theo ý kiến của ông. Họ lẳng lặng làm theo ý họ. Chiến tranh đạt đến độ căng thẳng, công việc ban tác chiến chất chồng, các sĩ quan túi bụi, ngược xuôi toát mồ hôi, riêng Đại úy gần như bị bỏ rơi, suốt ngày ngồi bên bàn với ấm nước chè loại ba hào không ai nhờ vả việc gì, ngoại trừ "xin anh có ý kiến" mà Đại úy cũng thừa biết đó là "động tác giả", "xin" nhưng không "nghe", đó là sự thật cay đắng mà Đại úy buộc phải chấp nhận. "Nghe theo ông ấy có mà chết", nhiều người nói sau lưng Đại úy như vậy. Quả như vậy thật, nếu cứ bày binh bố trận theo ý đồ của Đại úy thì chỉ "nướng" quân mà chẳng đạt hiệu quả gì cả. Ai cũng biết thế nhưng chẳng ai dám nói với Đại úy. Còn Đại úy thì không nghĩ như thế, ông vẫn tin ông là một trung đoàn trưởng cự phách, tất cả ý đồ chiến thuật của ông nếu được thực hiện nhất định sẽ thành công. Có điều, đã đến lúc Đại úy bị nghi ngờ.

Đại úy nghĩ là ông đã bị đánh cái dấu chân gà thứ nhất vào lý lịch mình khi ông cưới thím Hoa, cháu nội một địa chủ cỡ bự. Dấu chân gà thứ hai đậm hơn mới đánh dấu gần đây là việc Họa sĩ Tư, một tên tư sản phản động - công bố Đại úy là anh cùng cha khác mẹ với hắn. Dấu chân gà thứ ba, hóa ra vợ Đại úy cũng là một tên tư sản phản động "có nhiều hoạt động chống lại công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở huyện nhà"... Dấu chân gà thứ tư, con gái Đại úy cũng là một đứa chơi bời lêu lổng, hủ hóa lung tung, nhất định nhiễm phải nọc độc tư sản phản động của mẹ nó và chú ruột nó, ấy là Họa sĩ Tư. Một trung đoàn trưởng có bốn cái chân gà ấy hằn sâu trong lý lịch như vậy làm sao có thể làm trung đoàn trưởng được. Ông đau đớn nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình. Rõ ràng, sau ba mươi năm cầm súng với tất cả tinh huyết của một người lính, ông đã bị nghi ngờ về lòng trung thành của ông đối với Đảng. Đối với ông, đấy là nỗi thất vọng kinh khủng nhất mà ông buộc phải nhận lãnh không một lời ca thán. Bởi vì chính ông đã ràng buộc số phận mình với quá nhiều người bất chính. Làm sao có thể thanh minh được? Ông nghĩ mãi vẫn không ra... Có lần, ông đã hỏi điều này với trưởng ban tổ chức sư đoàn và được trả lời bằng một tràng cười sảng khoái:
- Ối giời ơi, bác Thìn ơi! Bác đa nghi như Tào Tháo! Có ai ngu lại nghi ngờ bác?
Đại úy không tin. Cán bộ tổ chức là vậy: Nói cười, bắt tay tâm sự... cứ như không, nhưng bụng nghĩ thế nào thì đố ai mà biết được. Đại úy trực tiếp hỏi sư đoàn trưởng, lại bắt gặp tràng cười kia:
- Ô hô hô! Anh là chúa nghi vấn! Lòng trung thành của anh đối với Đảng, tôi đố ai mà bì kịp. Khiếp, anh lại còn sợ tôi nghi ngờ anh...
Đại úy vẫn không tin. Đã nghi ngờ làm sao người ta nói thẳng cho ông được mà hỏi. Vô duyên. Đại úy buồn rầu tự trách mình. Cái số ông nó thế, không dưng lại tròng vào cổ cái lý lịch có nhiều vết đen đến thế.
- Chó chết! - Đại úy đập bàn kêu to.
Các trợ lý thất kinh, ngó sang bàn Đại úy làm việc. Mặt Đại úy đỏ rực. Đại úy bảo ai là chó chết? Tại sao lại đập bàn?
- Tôi có một lý lịch chó chết! - Đại úy nhắc lại.
À, thì ra thế. Mọi người cười to, ôm bụng cười, lăn ra mà cười và bu đến xoa dịu Đại úy bằng những cái vỗ vai, những lời xun xoe to nhỏ. Đại úy bỏ đi, đứng giữa sân, ngửa cổ cười sằng sặc.
Rồi Đại úy về thị trấn Linh Giang. Tin Đại úy bị cách chức đã loang rộng trong thị trấn. Bác Cả Rí kêu to khi trông thấy bóng Đại úy:
- Bác Thìn! Bác Thìn!
- Cái gì mà hét ầm lên thế? - Đại úy lừ lừ nhìn bác Cả Rí.
- Cơ khổ bác! - Mồm bác Cả Rí méo xệch.
- Là ý làm sao? - Đại úy hất hàm hỏi.
- Con gái bác nó sắp làm bà Phó bí thư huyện đoàn.
- Đừng giỡn!
Đại úy gạt bác Cả Rí đi thẳng. Bác Cả Rí kêu to:
- Đả đảo Đế quốc Mỹ!
Đại úy quay ngoắt lại, chỉ vào mặt bác Cả Rí:
- Anh đả đảo Đế quốc Mỹ hay đả đảo tôi? Anh nghi ngờ tôi là Việt gian bán nước phải không?
- Ấy chết! Bác nói thế tội em. Là em nói thằng Mỹ nó ác, nó đem máy bay ra đây ném bom. Ấy là phải làm hầm mà trốn bom đạn... Tức là có chỗ hủ hóa tốt... tức là nguy... Mẹ kiếp!
Đại úy lắc đầu, đi thẳng. Ông biết bác Cả Rí nói lỡm vụ con gái ông ăn nằm với Trần Hới trong hầm, người ta đồn thế. Đại úy trực tiếp hỏi Trần Hới:
- Có đúng như vậy không?
Trần Hới cả cười:
- Tôi là Phó bí thư huyện đoàn, bác nhớ cho.
- Nghĩa là thế nào? - Đại úy trố mắt.
Trần Hới chắp hai tay sau lưng bỏ đi. Được một đoạn, anh quay lại cười khẩy:
- Nghĩa là lần sau bác đừng hỏi tôi những câu hỏi dớ dẩn kiểu ấy!
Đại úy đã hết thời, chẳng còn uy tín lớn lao nào đối với huyện nhà nữa. Bây giờ ông chỉ là "thằng trợ lý tác chiến" quèn, phỏng có ích gì khi dọa nạt Trần Hới. Cũng như ông Lanh, phỏng có ích gì khi ông đã rời huyện vào làm một phó ban trong tỉnh ủy. Bố vợ Trần Hới đã hết thời. Sau khi ông Thanh rời huyện ủy ba tháng, ông Lanh luống cuống như gà mắc tóc. Công việc ở huyện rối tinh cả lên, không cách gì quán xuyến được. Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh đã về hưu, cái cẩm nang của ông đã bốc cháy. Một mình ông giữ hai chức vụ: bí thư và chủ tịch huyện, y như hai trái núi đè lên mình ông. Rồi chức bí thư sang vai một người khác, một mình ông gánh vác chức chủ tịch huyện cũng không xong. Tất cả đã bị bom đạn xới lên, không cách gì lập lại được trật tự. Càng gỡ rối càng rối thêm. Ông bù đầu bù tai, nhớ trước quên sau, quên cả việc quan trọng: tìm cách đẩy tay bí thư huyện đoàn cũ sang vị trí khác, đổi cái "ghế" trống này cho Trần Hới. Cho đến lúc ông bị điều lên cơ quan tỉnh ủy, cái việc quan trọng ấy vẫn chưa thành. Ông đi được dăm bảy hôm, Trần Hới đưa đơn li dị cô giáo Cam vì lý do đã xấu xí lại dám ngoại tình. Ông Lanh không tin, con gái ông mà ngoại tình? Vô lý. Nó xấu thế, dám ngoại tình với ai và ai dám ngoại tình với nó? Khỉ!
Ông Lanh tìm gặp Trần Hới:
- Mày nói thẳng đi, con Cam có ngoại tình thật không?
Trần Hới cả cười:
- Ba nói thẳng đi, tại sao ba lại hỏi tôi câu đó?
Ông giận run người, nghiến răng quát:
- Tao nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà!
Trần Hới chắp hai tay sau lưng bỏ đi. Được một đoạn, anh quay lại cười khẩy:
- Ba ngây thơ lắm.
Đúng là ông Lanh thật ngây thơ, cũng như Đại úy Thìn thật ngây thơ. Ông Lanh đã hết thời, cũng như Đại úy đã hết thời, chẳng còn uy tín lớn lao nào đối với huyện nhà nữa. Ông ngơ ngác nhìn Trần Hới đang thủng thẳng bước đi. Một cái bóng cao lớn, trùm lên lối dẫn vào văn phòng huyện ủy.
Đại úy đứng ngơ ngẩn giữa đường. Ông đi thẳng về nhà Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy. Quen chân thì Đại úy bước chứ có còn cái ông chủ tịch ấy nữa đâu mà tìm về. Ông ấy đã cao chạy xa bay.
Đại úy bước vào nhà. Bà Hiền ngồi trên chõng tre, nhìn ra đường, mặt mày cứng đờ, xanh tái.
- Chị Hiền!
Bà Hiền không trả lời. Nhìn Đại úy từ đầu đến chân lại nhìn từ chân lên đầu.
- Ối anh ơi!
Bà lao đến ôm chầm lấy Đại úy. Bà ôm lấy Đại úy hôn lấy hôn để. Rồi bà rối rít xoa lưng, xoa ngực Đại úy... thọc tay vào lưng quần Đại úy.
- Chị này, ơ!
- Hà he he! - Bà Hiền cười ngặt nghẽo: - Cho em xem một tý. Em thèm..., (i a) là thèm... (i a). Ôi anh ơi, anh bỏ đi đâu mà lâu thế (i a)...
Bà Hiền vùng chạy khỏi nhà, bẻ một cành phi lao khua khua, nhảy tâng tâng:
- Em thèm... ối anh ơi... vì tình sâu nghĩa nặng... một vợ hai con, là em đây, một vợ hai con... (í a)... cơ chi mà anh chui là chui bụi chuối... anh chui là chui... bụi cà... Máy bay! Máy bay! Anh Huy ơi, Alô...
Đại úy Thìn nhìn bà Hiền quay cuồng trước mặt như một con vượn cái động đực, ông cúi đầu nghĩ thầm:
- Bà ấy điên từ lúc nào thế nhỉ?



Chương mười


Họ đi sát bên nhau trong cái phần bóng tối của con người. Những con gà chán đêm đập cánh gáy vang động. Trăng mười chín sắp tàn, mờ ảo sau đám bạch đàn còn sót lại qua nhiều trận bom. Họ ngồi xuống. Một người quàng tay qua vai một người. Người này nói người kia cúi đầu. Người này hát người kia nấc lên. Người này ngã vào lòng người kia, phó thác đời mình cho người kia. Họ hôn nhau, những chiếc hôn dài, rất dài, kéo cả hai nằm dài xuống cát, trong cái phần bóng tối của con người.
Trăng mười chín sắp tàn, mờ ảo sau đám bạch đàn còn sót lại qua nhiều trận bom.
Một cái bóng trắng mờ úp lên một cái bóng trắng mờ. Cát bay tung tóe, vầng trăng đảo qua bên này lại quay lại bên kia. Người này nói "thôi". Người kia nói "yên nào". Vầng trăng đảo qua rồi quay lại, quay tít mù. Một tiếng rên ẩm ướt kéo dài. Và im lặng.
- Anh có khinh em không? - Thùy Linh hỏi.
- Anh yêu em. - Trần Hới trả lời, đưa cằm cà cà lên hai bờ vai trần của Thùy Linh.
Không phải đêm nay họ mới tìm gặp nhau ở đây, đây là điểm hẹn thường xuyên của họ. Và sau mỗi cuộc giao hoan ngút trời, bao giờ Thùy Linh cũng hỏi Trần Hới như thế, bao giờ Trần Hới cũng đáp lại như thế và đưa cằm cà cà lên bờ vai của Thùy Linh.
Thùy Linh ngã nhoài vào lòng Trần Hới, lim dim nhìn vầng trăng mười chín lúc này đã nhợt nhạt. Cô nhớ đến Hoàng một nỗi nhớ rưng rưng dịu ngọt, lẫn một chút cay đắng thường nhật đời thường. Đêm nào cô cũng nhớ Hoàng. Gương mặt Hoàng dần hiện rõ trong bất kỳ giấc mơ nào của cô, kể cả những giấc mơ ma quái nhất khiến cô nhiều lần giật mình vùng dậy, kêu váng nhà. Họ đã bên nhau trong bốn năm, bốn năm của mối tình đầu dịu ngọt, rưng rưng... Đến phút cuối cùng bỗng nhiên tan vỡ nhanh hơn bong bóng xà phòng. Hoàng trốn nhà ra đi, để lại ông bố suốt ngày lảm nhảm với cái bóng của mình trên vách. Thùy Linh hay tin thì đã quá muộn. Cô chạy điên cuồng trên cát, tóc tung xõa miệng hét vang:
- Hoàng ơi! Hoàng ơi! Sao lại bỏ em mà đi, ơi Hoàng!
Không một tiếng đáp. Trắng băng những bãi cát hoang vu. Cô đi, cái bóng của cô nghiêng ngả. Cái bóng tròn rung rung, đôi khi quay vòng, tít  mù, đôi khi trơ ra như bóng dáng của cái chết. Cô cười. Cười ngặt nghẽo, cười rung đêm trăng suông, ngờm ngợp gió...
Vào lúc ấy Trần Hới có mặt. Cần phải có mặt đúng lúc khi người ta cần có mặt, đấy là biệt tài của Trần Hới. Thùy Linh đang cần cái nạng chống, mục rỗng hay cứng cáp, thối nát hay thơm tho... Cô không cần biết. Cô cần một cái nạng chống để đỡ lấy tâm hồn yếu đuối của mình. Sau cái "đêm thần kinh" trong hầm tối cùng với Trần Hới, Thùy Linh thấy kinh tởm cả chính mình. Lần đầu tiên, khi thấy bóng mình trong gương. Thùy Linh cảm thấy buồn nôn. Cô ôm ngực ho rũ rượi nằm liệt giường mấy ngày liền.
Trần Hới đến. Anh lẳng lặng ngồi bên cô hàng giờ liền, thỉnh thoảng lơ đễnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Rồi cúi đầu, nói nhỏ:
- Anh về đây.
Trần Hới lủi thủi bước đi. Nhìn anh lúc này, ai ai cũng phải nói: "Đó là con người bất hạnh".
Lần cuối cùng Thùy Linh hỏi:
- Sao thầy không nói gì cả?
Trần Hới đưa tay vuốt tóc, buồn rầu đáp:
- Biết nói gì bây giờ... cái số phận khốn kiếp của anh...
- Thầy nói thế...
Trần Hới nhếch mép cười, điệu cười của một kẻ bất mãn trầm trọng.
Thùy Linh đã nghe Trần Hới kể chuyện suốt một buổi chiều. Thì ra con người đó không ngờ cũng trải qua biết bao chua chát đắng cay. Xinh trai là thế, hiểu biết là thế mà yêu cô nào cũng bị phụ tình. Thậm chí đến cô Cam, người đàn bà xấu xí cũng bỏ thầy mà đi theo người khác...
- Tôi là một kẻ khốn nạn!
Trần Hới đứng bật dậy, bật ra tiếng kêu nghẹn ngào. Thùy Linh giật mình, cô vội vàng nắm lấy tay Trần Hới:
- Đừng nói thế...
- Sao?
- Em nghĩ...
Một cái hôn rơi vào cổ. Một cái hôn khác rơi xuống môi, Thùy Linh buông lỏng toàn thân, những cái hôn của Trần Hới tràn trề trên thân thể cô, nóng rực.
- Anh yêu em! Anh không thể sống thiếu em...
- Vâ-ân-âng
Nghẹt thở. Nóng rực và nghẹt thở. Thùy Linh ngập vào cơ thể cường tráng của Trần Hới. Toàn thân cô run lên, mịt mù cảm giác. Cô muốn hét lên một tiếng gì, một tiếng gì không biết nhưng phải hét lên...
Thế rồi đêm lại đêm Thùy Linh tìm đến Trần Hới, tự nguyện chân thành. Sau những cuộc giao hoan ngút trời, cô tự hỏi: "Rồi sẽ đi đến đâu?". Cô nằm mơ thấy Hoàng, những giấc mơ thật kinh khủng. Sáng hôm sau, cô tự nhủ: "Không thể tiếp tục được nữa!". Nhưng rồi đến tối, nghe tiếng chặt lưỡi của Trần Hới, cô cuống lên: "Mau lên! Mau lên! Không chậm mất!"... Và lẻn đi, không báo cho Cule biết, lòng thầm nghĩ, "Thôi, lần này là lần cuối cùng..."
Thùy Linh đứng dậy thong thả cuốn tóc.
- Ta về thôi anh.
Trần Hới chống gối đứng dậy. Họ khoác tay nhau ra về, vừa đi vừa hát khe khẽ. Được vài trăm mét, một người đàn bà từ trong một khóm dứa dại nhảy xổ ra, hét vang:
- Hí ha ha... em thèm... (í a)... là em thèm... ối tình tang... Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam!!!... Anh Huy ơi, máy bay!
Thùy Linh ôm chầm lấy Trần Hới. Người đàn bà vung roi quất tới tấp trong không khí tiếp tục những lời điên dại.
- Ai thế anh? - Thùy Linh hỏi.
- Bà Hiền, vợ ông Huy, một người đàn ông hèn nhát. Bà ấy không chịu miệng lưỡi của người đời khích bác bà về sự hèn nhát của chồng bà. Nhục quá hóa điên...
- Thế thì em biết rồi.
Thùy Linh thì thầm. Cô ngước lên nhìn Trần Hới. Chưa bao giờ cô thấy Trần Hới đẹp như bây giờ. Đẹp mê hồn, đấy là người cô quyết định phó thác số phận của mình vào đấy.
- Hí ha hí ha... Tôi đố tôi tìm ai... ối cha mẹ ơi, em thèm... là thèm cái của (í a)... Máy bay! Keng! Keng! Keng!
Người đàn bà điên uốn cong người, lộn nhào mấy vòng trên cát, cười sặc sụa.

                                          *

                                  *                      *


Máy bay!
Từ độ cao một ngàn năm trăm mét, tám chiếc F105 lần lượt bổ nhào xuống sư đoàn bộ. Chín đụn khói bốc lên từ phía phòng kỹ thuật. Sau đó là lửa, những ngọn lửa sáng trắng cao vói lên trời. Tất cả các sĩ quan bổ nhào xuống hầm. Căn hầm sở chỉ huy vẫn lạnh tanh, nghiến răng chịu đựng từng lớp đất đá dội thẳng vào cùng với khói đen đặc cuồn cuộn xộc vào hầm, tất cả nhìn dán vào tấm mi-ca lớn vẽ ngoằn ngoèo các đường bay. Bốn trung đoàn liên tục réo điện thoại, các sĩ quan trực chiến hét vang vào ống nói. Trưởng ban tác chiến liên tiếp báo tọa độ các tốp máy bay. Sư đoàn trưởng ngồi yên, thỉnh thoảng đập tay xuống bàn ra lệnh, mắt vẫn không thôi nhìn dán vào bảng tiêu đồ. Phòng kỹ thuật bốc cháy. Có hơn tám chục sĩ quan và hạ sĩ quan lao vào chữa cháy. Phòng chính trị trúng bom. Một sĩ quan bay vọt lên trời, rơi xuống nằm vắt ngang trên đường dây cao thế. Thêm ba tốp F105 xuất hiện từ hướng tây – tây bắc. Pháo nổ rầm trời. Bom bay ràn rạt, chấn động toàn sư đoàn bộ. Quả đất như bị bóp vụn ra từng miếng nhỏ. Sở chỉ huy vẫn lạnh ngắt, mọi biến động kinh khủng ở bên ngoài làm cho sắc mặt hết thảy bị căng ra, đỏ tím nhưng không thấy dấu hiện bỏ chạy hay rối loạn. Ai ngồi đâu ngồi đấy, đứng đâu đứng đấy. Tất cả vẫn dùng bằng khẩu lệnh khô khốc, bất chấp từng đợt đất đá bay ào vào, phủ đầy tóc tai mồm mũi mỗi người. Riêng Đại úy Thìn cảm thấy lúng túng, ông thấy mình bị thừa trong cuộc chiến đấu này. Bây giờ người ta không hỏi ý kiến nữa, không ai để ý đến ông nữa. Ông ngồi ở vị trí số năm trong dãy bàn của sĩ quan trực chiến, ấy là vị trí dự phòng. Hai tay chống gối, ông nhóng cổ nhìn dán vào bảng tiêu dồ. Sư đòan trưởng lại đập bàn ra lệnh, các sĩ quan lại hét vang vào ống nói. Thêm chín tốp F105 nữa. Cuộc chiến gay go đây. Bên ngoài, trạm xá sư đoàn trúng bom, tháp nước gãy gục rơi xuống còng queo. Nhiều người nhảy ra khỏi công sự cứu thương binh. Có chín mươi cáng cứu thương chạy bời bời trong lửa khói. Sở chỉ huy vẫn lạnh ngắt. Mọi biến động kinh khủng ở bên ngoài hình như không liên quan gì ở đây. Tại đây, tất cả đang chú ý đến các vùng trời của các trung đoàn đang chiến đấu, chỉ vậy thôi, bất chấp mọi biến cố xảy ra xung quanh. Đại úy Thìn nhấp nhổm không yên. Ông không được giao một việc gì cả. Công việc của ông là ngồi chờ một sĩ quan trực chiến nào đó bị thương để thay thế. Đấy là công việc quá nặng nề đối với Đại úy. Mấy tháng trước, Đại úy ngồi ở vị trí trung tâm sở chỉ huy trung đoàn la hét quát nạt và ra lệnh các tiểu đoàn của ông chiến đấu. Bây giờ ông trở thành một vật thừa, vô duyên giữa không khí căng thẳng nhưng sôi nổi này. Đôi khi có một sĩ quan nào đó chạy qua, đá phải chân ông đang duỗi thẳng, đã nhìn ông khó chịu, dù không nói ra nhưng khó chịu. Và ông tự hiểu, người ta không giao việc cho ông chỉ vì lòng trung thành với cách mạng của ông đã bị đánh dấu chân gà. Ông nuốt nước bọt ngậm thinh. Phòng tác chiến trúng bom. Kho quân trang trúng bom. Nhà ăn sư đoàn bộ nát tan. Đường dây hữu tuyến bị cắt tơi tả. Đại úy Thìn đứng dậy:
- Báo cáo! Xin được về vị trí chiến đấu!
Sư đoàn trưởng liếc ông, mặt lạnh lùng:
- Ngồi yên.
Đại úy ngồi xuống, mồ hôi ướt đầm đìa. Một sợi đất đá lại bay ập vào. Hai nữ tiêu đồ bị choáng, bóng điện sở chỉ huy vỡ tan, cột an-ten bị đứt đôi. Mất liên lạc một trăm phần trăm. Các máy vô tuyến 2w 15w làm việc không đồng bộ, sư đoàn trưởng gầm lên...
Đại úy Thìn nhào ra khỏi sở chỉ huy sư đoàn. Ông giật lấy khẩu CKC từ tay một sĩ quan gãy chân đang nằm đợi băng bó. Phải bắn cháy một chiếc máy bay! Ý nghĩ ấy đến bất thần và rực cháy trong ông. Ông chỉ huy trung đoàn đánh nhau sáu mươi bảy trận không bắn cháy chiếc máy bay nào, vậy bây giờ mình ông phải thực hiện bằng được. Thời kháng Pháp cũng có lần ông đã làm như thế này mà thành công. Đây là việc ông giao một tiểu đội trinh sát vào làng Hướng Phương xách cổ cho được thằng xã trưởng tàn ác khét tiếng trong huyện nhưng không thành, ba lần bảy lượt đều không thành. Thế là ông đi, trong vòng ba tiếng đồng hồ ông đã túm tóc nó lôi về trước sự kinh ngạc của mọi người. Bây giờ cũng phải thế. Nhất định ông sẽ bắn cháy máy bay. Nhất định ông chứng minh cho mọi người hiểu rằng: không một nhiệm vụ nào cách mạng giao mà ông không hoàn thành. Lòng trung thành của ông đối với cách mạng là một khối vàng mười, bất di bất dịch. Xin đừng ai nghi ngờ ông, khổ tâm lắm. Mấy tháng nay ông dằn vặt suốt ngày đêm, đau đớn nghĩ đến số kiếp của mình không dưng lại vớ phải lý lịch xấu. Ông bắn. Chạng chân, dướn thẳng người mà bắn. Ông đối diện với từng chiếc F.105 đang lần lượt bổ nhào. Ông nghiến răng bóp cò. Phải bắn cháy, nhất định ông sẽ lập chiến công, khối vàng mười của ông mọi người sẽ xác nhận. Nhất định! Nhất định! Bắn! Lại bắn! Một khối lửa trùm lên người ông, sau một giây ông bị đẩy lên trời. Ông thấy mát, mát rượi. Chao ôi là sung sướng. Hình như máy bay đã cháy rồi, cháy thật rồi. Hoan hô! Chao ôi là mát. Chao ôi là hòa bình. Ông bay vật vờ trên không trung, trên từng đám mây trắng xốp, trời xanh quá. Miền Nam kia kìa, bao nhiêu là cờ đỏ bay phấp phới. Hòa bình rồi! Chao ôi là mát...
Lúc này vào khoảng ba giờ chiều.



Lúc này vào khoảng năm giờ chiều.
Bác Cả Rí đập cửa phòng Trần Hới thình thình. Năm phút sau, Trần Hới ló đầu ra, hỏi:
- Cái gì thế?
- Có Thùy Linh ở đây không?
- Ông hỏi làm gì?
Bác Cả Rí trợn mắt quát:
- Có Thùy Linh ở đây không, tôi bảo!
- Không có!
Trần Hới khép kín cửa. Bác Cả Rí bặm môi ráng sức đạp tung cánh cửa ghép bằng ván ép. Cửa mở toang. Bác Cả Rí nhảy xổ vào buồng. Bác túm ngực Thùy Linh lôi dậy, nghiến răng quát:
- Còn nằm đây à? Ba mày chết rồi!
Thùy Linh đứng vụt dậy, cô lao ra cửa, cứ hướng cửa sông Linh mà chạy, không ai đuổi kịp, không cách gì đuổi kịp được cô.
 Trần Hới chắp tay sau đít nhìn theo, chợt cau mày.

                                          *

                                 *              *


Có tiếng đập cửa, Cule lồm cồm bò dậy xòe diêm.
- Ai đấy?
Không có tiếng trả lời. Im lặng kéo dài. Cule cầm đèn đi ra, rút chốt cửa. Ông giơ đèn lên cao. Một cái đầu tóc rối bù từ từ nhô lên.
- Ối cha mẹ ơi!
Cule quẳng đèn bỏ chạy, ông chui vào trong bếp đứng run. Lát sau, định thần trở lại, ông rón rén vào buồng đập chân Thùy Linh gọi dậy. Cả hai người rón rén đi ra, cùng một lúc giơ cao đèn, Họa sĩ Tư đứng ngang ngạch cửa nhăn răng cười.
- Khỏe chứ!
Cule sụp xuống vái lia lịa. Thùy Linh đứng ôm mặt, run bắn. Họa sĩ rung đùi cười to, cười rất to, cười rung quán thịt chó.
- Tốt. Xưa nay chưa ai lạy tôi bao giờ.
Nói rồi Họa sĩ kéo ghế ngồi, rút thuốc hút, mắt ngó ngơ lên trần.
- Vái thế đủ rồi. Có gì cho tôi ăn không, đói quá.
Cule đã hoàn hồn. Ông lết lại ôm chân Họa sĩ Tư mếu máo:
- Anh còn sống thật anh Tư?
- Chết rồi. Phải chết để biết chết ra làm sao. Xong, lại sống lại để mà chơi. Dại gì chết hẳn.
Thùy Linh tiến đến, cô sà vào lòng Họa sĩ Tư nấc lên
- Chú Tư! Chú Tư ơi... mẹ cháu đâu? Mẹ cháu?
- Vẫn sống nhăn như tôi, không việc gì sất. Tôi sẽ kể, nhưng hãy cho tôi ba miếng đã, đói quá.
- Rồi!
Cule đập hai tay vào đùi, nhanh nhẩu tiến vào bếp. Thùy Linh vẫn bíu áo Họa sĩ, hỏi rối rít:
- Thế bây giờ mẹ cháu ở đâu?
- Ở bến Son.
- Bến Son ở đâu?
- Ở huyện Bố, xa lắm.
- Thế chú và mẹ cháu nhảy xuống sông tự vẫn rồi kia mà?
- Ờ, định thế nhưng không thành. Chết cũng khó bỏ mẹ chứ bỡn đâu.
Cule bưng hai đĩa dồi chó, cắp nách chai rượu nếp đi ra, cười hề hề:
- Tôi sướng quá! Tôi sướng quá!
- Thế à?
Họa sĩ Tư cười to. Hai người chạm cốc. Uống và ăn và cười sảng khoái.
- Nhậu với người dưới âm phủ lên thật đã.
- Dưới âm phủ không có thịt chó ông ạ.
- Thế à? Tôi đã bảo mà! Dưới ấy tốt lắm...
- Được!
Họa sĩ vỗ vai khen Cule. Cule khịt mũi, cười tít mắt. Rồi Họa sĩ bắt đầu thủng thẳng kể, tợp một ngụm rượu lại kể một đoạn trường.
Họ vượt sông Linh vào lúc nửa đêm bằng một chiếc thuyền nan không biết của ai neo bên gốc cây bần. Cứ nhằm thung lũng Chớp Ri mà tiến. Đến đấy, họ sẽ tìm một miếng đất nằm kẹp giữa hai đỉnh núi Ông, núi Bà. Họa sĩ Tư biết rất rõ vùng này. Thời kháng Pháp Họa sĩ đã sống mãi ở đây, thạo từng đỉnh núi, từng con suối, đến từng lối mòn trong rừng Họa sĩ cũng nhớ như in. "Một túp lều tranh hai trái tim vàng", đấy là khẩu hiệu để đảm bảo hạnh phúc hiện còn rất éo le của họ. Cuốc bộ ròng rã ba ngày đêm, rạng sáng thứ tư họ có mặt tại thung lũng. Thung lũng vẫn hoang vu như thuở Họa sĩ Tư đã sống. Lác đác vài nhà dân mọc dọc suối Tranh. Đây là vùng dân cư của người kinh sinh sống đã lâu năm. Xa hơn, trên lưng chừng những đỉnh núi lớn là khu vực sinh sống người Vân Kiều, người Coh. Chỉ có thế, còn tất cả vẫn hoang vu, lạnh lẽo. Họ mừng lắm. Càng hoang vu càng hay bởi vì nhờ thế mà khẩu hiệu "một túp lều tranh hai trái tim vàng" được bảo đảm. Họ chọn được một miếng đất nằm kẹp giữa hai đỉnh núi Ông, núi Bà. ở đây sơn thủy hữu tình, tuyệt quá. Họ lăn trên cỏ, ôm nhau tính đến chuyện trăm năm. Bây giờ tính đến chuyện trăm năm cũng đã muộn nhưng không sao, tất cả sẽ bắt đầu từ con số không mà đi lên, hẳn thế. Sau ba ngày, họ đã dựng một túp lều nhỏ. Tốt quá! Tốt quá! Họ vật lộn tha hồ trong túp lều lá cây, cười hát, khoa chân múa tay suốt mấy ngày không chán.
Thế rồi họ hay tin có một tốp công an lên thung lũng này đi tìm họ. Chạy. Hai người bỏ thung lũng vượt rừng tìm đến một vùng cao khác. Được mấy ngày lại có một tốp công an khác đuổi theo. Lại chạy. Họ vòng sang một vùng rừng khác, hướng đất Lào mà đi. Ngày đi, đêm nghỉ. Đói khát lại đói khát... Cả hai gần như kiệt sức. Đến lúc ấy, họ phát hiện ra cái nơi mà họ tưởng là đất Lào là một vùng rừng giáp đồng bằng ven sông Linh. Ôi thôi, bỏ mẹ rồi, chạy! Không kịp, có một tốp công an đã phát hiện ra họ. Thế là cùng đường...
Họ chọn cao điểm 405 làm điểm nhảy sau khi để lại mấy dòng cho Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh. Dưới chân là sông Linh xanh thẳm, trên đầu là mây trắng vật vờ bay. Bốn xung quanh là bạt ngàn cây rừng, hoa dẻ nở tung như mây trắng. Họ cởi hết áo quần. Coi như họ đang đứng trên trăng lưỡi liềm trong bức tranh "trăng thượng huyền" của họa sĩ vẽ tặng thím Hoa. Họ ôm nhau, áp sát vào nhau. Một thân hình còm cõi với một thân hình tròn lẳn nõn nà. Họ hôn nhau, lần hôn nhau cuối cùng, chiếc hôn kéo dài đến vô tận. Và rồi họ rơi từ độ cao bốn mươi mét xuống sông Linh như hai con cò bị trúng đạn. Đấy là buổi chiều mịt mù sương khói.
Rạng sáng hôm sau Họa sĩ mở mắt, ngơ ngác thấy mình nằm trong nhà sàn của gia đình người Vân Kiều. Ôi thôi, chết kiểu gì mà lạ thế này? Có ai chết mà thở được, mà nói được, mà trông thấy được bao giờ! Khốn nạn rồi, vậy là Họa sĩ chưa chết. Còn thím Hoa, thím có chết không? Liệu thím có được cứu sống như Họa sĩ không?
- Chỉ thấy mình mày thôi, không thấy ai nữa.
Người đàn ông Vân Kiều đã ngụp lặn giữa vùng xoáy nước sông Linh lôi bằng được Họa sĩ lên bờ, trả lời. Ròng rã mười ngày trời, Họa sĩ đi dọc bờ sông Linh cố tìm cho ra xác thím Hoa trôi nổi ở đâu nhưng không thấy. Họa sĩ vật vã đau đớn cả tháng ròng. Họa sĩ rủ thím bỏ chạy, rồi rủ thím nhảy xuống sông tự vẫn. Thế mà Họa sĩ sống còn thím Hoa thì chết mất xác. Thì ra mình là thằng lừa ư? Một thằng đểu giả ư? Không được! Đã chết là cùng chết. Sống rồi phải chết lại. Chết không được lần này phải chết lần khác. Bao giờ chết kỳ được mới thôi. Lần thứ hai Họa sĩ đâm bổ xuống sông và bị người đàn ông Vân Kiều túm cổ kéo lên, cho một cái tát vào mặt.
- Đồ ngu! - Người đàn ông Vân Kiều nhổ nước bọt vào mặt Họa sĩ.
Ờ, có thể là ngu thật. Đã là người phải ham sống sợ chết. Dù cách nào cũng phải nghiến răng mà sống chứ. Anh cho anh là chân lý vĩnh cửu của đời sống vậy mà anh lại nhảy xuống sông để nhận lãnh lấy cái chết ngu ngốc thì chân lý ấy là cái thá gì, có cần thiết cho ai. Dám sống, đây là điều kiện tiên quyết để làm người. Thôi rồi, ngu thật rồi. Thế mà mình lại xui một người đàn bà tự chết, oan uổng làm sao! Họa sĩ khóc như mưa, quỳ xuống trước sông Linh mà vái suốt ngày đêm và ngửa mặt lên trời khóc triền miên ngày này sang ngày khác.
Đến khi người đàn ông Vân Kiều báo tin:
- Nó sống đấy!
- Ai? - Họa sĩ chụp lấy ngực người này, trợn mắt hỏi.
- Vợ mày.
Họa sĩ đứng vụt dậy. Đúng rồi, phải thế chứ. Thế mới có lý chứ. Vô lý lại có kẻ sống người chết, trời phật muôn năm. Ôi cha mẹ ơi sướng quá.
Theo lời người đàn ông Vân Kiều, thím Hoa được người Coh cứu sống. Họa sĩ lên đường về các vùng dân cư có người Coh sinh sống thăm do tin tức. Tiện đâu ngủ đấy, tiện đâu ngửa tay xin ăn đấy, ròng rã một năm trời, khi đã tuyệt vọng Họa sĩ tình cờ gặp một sĩ quan, người này cho biết có một người đàn bà đẹp, tên Hoa làm nghề chèo đò ở bến Son, Họa sĩ tìm đến, quả nhiên đúng. Họ ôm nhau khóc cười nghiêng ngả. Không gì hạnh phúc hơn được tái sinh. Chính vì thế, sau vài giờ vui sướng đạt đến độ tâm thần vì được trông thấy nhau, thím Hoa đã ngồi lặng thinh hàng giờ liền, rồi nói:
- Chúng ta lại bắt đầu từ con số không.
- Đúng thế - Họa sĩ gật gù.
- Không phải bắt đầu xây dựng cái hạnh phúc trăm năm mà chúng ta mơ ước như ngày đầu trốn chạy đâu...
Thím Hoa nói đều đều như đang đọc một dòng của cuốn sách nào đó. Họa sĩ giật mình hỏi:
- Thế là sao?
Thím Hoa òa khóc nức nở, vùi đầu vào chăn, không trả lời. Lúc này Họa sĩ có dịp ngó quanh túp lều lá mía: chân dung Đại úy Thìn được đặt trên bàn thờ nhỏ, nén nhang đang nghi ngút khói, một nải chuối nhỏ, một bát cơm không... Họa sĩ biết: thế là Đại úy đã hi sinh. Chân dung Đại úy được vẽ bằng bút mực chính thím Hoa tự vẽ, chẳng giống Đại úy chút nào, chỉ đoán được bằng đôi quân hàm có bốn ngôi sao đeo trên cổ áo.
- Em vừa nghe chồng em chết cách đây một ngày.
Thím Hoa ngồi dậy rủ rỉ kể. Thím kể một năm qua, kể từ ngày nhảy xuống sông được người Coh cứu sống, thím đã đi những đâu, đã nghĩ ngợi những gì...
- Chúng ta ở cực bên này, còn anh Thìn ở cực bên kia.- Thím vuốt tóc, trầm tĩnh nói - Anh Thìn và chúng ta đã sống bất bình thường, đã tự phi lý trước cuộc sống.Thế mà cả anh Thìn và chúng ta mỗi bên đều cho mình có lý. Em đã nghĩ chán ra rồi, cần phải trở lại đời sống bình thường như mọi người đang sống.
Thế là họ chia tay. Thím Hoa chèo đò đưa họa sĩ qua sông, cứ một nhịp chèo một đợt nước mắt trào. Đành phải thế thôi. Họa sĩ hãy về với mọi người để làm việc vì mọi người, công việc của một kẻ dám sống trước phong ba bão táp, ấy là công việc bình thường mà mọi người đang làm. Thím Hoa ở lại thờ chồng bên kia sông và lãnh lấy nghề chèo đò sang ngang giữa một trời bom đạn để trả giá cho những năm tháng sống bất bình thường của thím. Đò cập bến. Họ hôn nhau, nồng nàn trong nỗi đắng cay đành phải chấp nhận.
                                          *

                                 *              *

Họa sĩ Tư và Thùy Linh đứng cúi đầu trước nấm mồ trắng lạnh, hương trầm đang nghi ngút. Dưới nấm mồ kia là Đại úy Thìn, con người vừa đáng trọng vừa đáng khinh, vừa đáng thương vừa đáng ghét...
- Em cũng vậy thôi anh Thìn - Họa sĩ lầm rầm khấn - vừa đáng trọng vừa đáng khinh, vừa đáng thương vừa đáng ghét. Mai mốt em chết, em xin một chỗ nằm bên anh. Chúng ta là anh em, dù cả đời chưa lần nào anh công nhận em là em của anh cả. Mặc kệ anh, em vẫn là em của anh...
Thùy Linh rơm rớm nước mắt. Cô quỳ xuống vái. Nắng chiều đã nhạt, từng đụn cát trắng đã sẫm mầu hoàng hôn. Họ ra về, cả hai cúi đầu bước, thổn thức về một thời họ đã sống với con người ấy dưới nấm mồ kia. Lội qua suối Mật, Họa sĩ bất ngờ hỏi:
- Cháu có nghén rồi phải không?
Thùy Linh thất sắc, lúng búng:
- Không... cháu không...
- Cháu có nghén hơn ba tháng rồi.
Họa sĩ buồn rầu nói, Thùy Linh đứng lặng cúi đầu. Họa sĩ đặt hai tay lên vai cô, thì thầm:
- Với ai thế?
Thùy Linh cắn môi im lặng. Họ tiếp tục lối rẽ vào quán thịt chó Cule. Đến gần nhà, thốt nhiên Thùy Linh sà vào lòng Họa sĩ Tư, nấc lên:
- Cháu khổ lắm chú ơi!
Họa sĩ vuốt nhẹ tóc Thùy Linh:
- Dù thế nào cũng phải nghiến răng mà sống. Mẹ cháu dặn cháu thế đấy.
- Không sống nổi đâu chú ơi, không thể sống...
Thùy Linh ôm mặt khóc. Họa sĩ xòe diêm châm lửa hút, bất chợt nhìn về phía dãy nhà hầm của ủy ban huyện. "Trần Hới ở cuối dãy, giờ này hắn đang làm gì?" - Họa sĩ ngẫm nghĩ - "Chắc là đang thò mồm vào vú một con bé nào đó, rồi nói những lời thống thiết".
- Có thể lắm! - Họa sĩ bỗng nói to.
Thùy Linh vẫn ôm mặt khóc. Đường gân xanh nổi đậm ở thái dương giật giật. Họa sĩ lắc đầu xòe diêm châm một điếu khác.
"Không biết sẽ bắt đầu như thế nào với hắn đây. Không cẩn thận sẽ bị hắn cho nốc ao." Họa sĩ nuốt nước bọt, rít liên tục nhiều hơi thuốc và nuốt chửng khói vào bụng. Bỉ đã nói đúng, chính Trần Hới đã gây ra bất hạnh cho Thùy Linh, chứ không còn ai khác.
Một tháng sau Đại úy Thìn hy sinh, thị trấn Linh Giang râm ri chuyện Thùy Linh có chửa. Người ta bàn tán không phải chuyện Thùy Linh bỗng nhiên có chửa, chuyện này đã quá nhàm, cứ năm bảy tháng lại có một người "không chồng mà chửa" lại xuất hiện, người ta bàn tán vì không biết ai phóng lên tin đồn chính Cule là bố của đứa trẻ trong bụng Thùy Linh. Thế mới khủng khiếp. Cule nghe được, rụng rời chân tay. Uất quá, cắm cây dao phay cắm xuống nền nhà, hét vang:
- Tao biết thằng nào nói tao cắt tiết như cắt tiết chó.
Vừa lúc bác Cả Rí đi câu lươn trở về, vừa bước vào cửa đã bị Cule chỉ vào mặt quát:
- Khai ra! Có nói không thì bảo!
Bác Cả Rí mặt tái xanh, lắp bắp:
- Nói cái gì?
Cule kể vắn tắt rồi nói:
- Có phải bác phóng ra không?
Bác Cả Rí đứng bất động, trân trố nhìn Cule, đoạn ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Trời đã sinh ra mi là cái thằng nói dóc, chuyên môn bịp chuyện mua vui, giờ mi hãy để bạn mi xin tí tiết.
Cule ngồi xuống ghế, vò đầu bứt tai:
- Chó má nhiều quá, giết mãi vẫn không hết.
Bác Cả Rí mặt đỏ bừng, rút dao phay đang cắm ngập giữa nền nhà, chĩa thẳng lên trời, nói:
- Tôi sẽ xách đầu cái thằng vu khống về trình bác.
Nói rồi bác Cả Rí nhằm hướng huyện đoàn mà đạp tới. Thoáng thấy bóng bác Cả Rí, Bỉ hốt hoảng chạy tới, chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy bác trăm ngàn mớ lạy!
- Trần Hới đâu? - Bác Cả Rí quát hỏi.
- Ấy, bác bớt nóng, bớt nóng. Bác làm thế thì em chết...
Bỉ nhăn nhó van xin bác Cả Rí hãy quay lui, đừng nhắc chi đến Trần Hới. Chính Bỉ đã tiết lộ cho bác Cả Rí chuyện này. Tuần trước thấy Trần Hới cặp kè với một cô tên là Lệ Minh. Bỉ bật cười, hát vang vang:
- Ngựa giấy (ôi a) ngựa giấy... tít mù nó lại vòng quanh... đèn cù, đèn cù (là) đèn ơi ơ hơi...
Bác Cả Rí nghe được, hỏi:
- Anh hát thế nghĩa là sao?
Bỉ liếc nhanh về phía Trần Hới, nói nhỏ:
- Khẽ thôi. Cháu ruột Bí thư Huyện ủy đấy...
- Cái cô ấy phải không?
- Ấy chết, bác bé mồm cho em nhờ.
Khả năng "xử lý thông tin" của bác Cả Rí không đến nỗi tồi. Vừa nghe Cule nói thế, bác đã hiểu ra. Chính hắn đã bỏ rơi Thùy Linh để theo đuổi cái cô gọi là Lệ Minh kia, và để trốn tránh trách nhiệm về cái thai trong bụng Thùy Linh, hắn đã phóng lên "tin thất thiệt" thuộc về phía Cule, y như cách đây một năm hắn đã vu khống cho cô giáo Cam tội ngoại tình để cắt đứt duyên nợ với cô giáo. Nghĩ thế, lập tức bác Cả Rí xách dao phay ra đi. Loại ấy là chém cổ, không tha. Mặt mày bác Cả Rí đỏ bừng bừng, may cỏ Bỉ ngăn lại. Bỉ vái liên hồi, ôm bác đẩy ra xa, bác đành nuốt nước bọt quay lui, vừa đi vừa chửi đổng.
Chuyện ấy Họa sĩ đã biết. Bây giờ phải tính chuyện đấu với Trần Hới. Thằng này kinh lắm, không khéo bị hắn cho nốc ao như chơi. Họa sĩ lẩm nhẩm tính thế cờ bẫy đặt của mình trong cuộc đấu sống còn với Trần Hới.
Thùy Linh vẫn đứng ôm mặt khóc, hơn một giờ sau cô lảo đảo vào buồng nằm. Đến gần sáng cô nghe có người gõ cửa. Cule thắp đèn đi ra. Ba công an xộc vào, hỏi:
- Họa sĩ Tư đâu?
Cule tái mặt:
- Tôi... không.
Vừa lúc Họa sĩ bật dậy, thong thả bước ra:
- Tôi đây.
- Anh bị bắt.
Một người chìa lệnh truy nã từ thời còn Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, hai người túm tay Họa sĩ bẻ quặt ra sau, trói chặt. Họa sĩ nghĩ nhanh: "Chưa vào trận đã nốc ao, thằng ấy kinh thật".
Thùy Linh chồm dậy, chạy ào ra. Họa sĩ bị đẩy ra khỏi cổng. Cô nhào tới ôm chặt Họa sĩ:
- Chú Tư ơi, đừng bỏ cháu mà đi.
- Cháu cứ yên tâm, rồi chú sẽ về. - Họa sĩ Tư buồn rầu đáp.
- Không! Không! Không!
Thùy Linh hét vang, hai tay bíu chặt Họa sĩ. Một công an gỡ tay Thùy Linh ra:
- Thôi đủ rồi.
Và đẩy Họa sĩ đi nhanh.
Thùy Linh chạy theo, nức nở khóc, hét đến khản tiếng:
- Chú Tư ơi đừng bỏ cháu mà đi! Chú Tư ơi...
Cule đứng trong nhà, lặng lẽ thắp hương đặt lên bàn thờ, lầm rầm cầu cho Họa sĩ tai qua nạn khỏi.


                                          *

                                 *              *


"Con lạy bác, bác cho con đi tìm mẹ con. Con biết nếu báo trước bác sẽ không cho con đi. Bởi vì đang khi bom đạn đầy trời, con lại bụng mang dạ chửa..."
Hoàng vân vê bức thư Thùy Linh gửi lại cho Cule, không nói một câu gì. Anh chào Cule, đi thẳng ra bờ sông, nơi có hòn đá "Trịnh Nguyễn phân tranh" vẫn còn nguyên chỗ cũ. Hoàng nằm lên đấy, ngửa mặt nhìn trời. Mặt trời đã lặn, li ti những vì sao mờ. Sóng vỗ bên sườn trải từng đợt, từng đợt... Đây là buổi chiều ảm đạm nhất của đời anh.
Đơn vị cho anh về được sáu tiếng. Mười hai giờ trưa anh có mặt tại thị trấn. Ba anh không nhớ ra anh đi bộ đội từ lúc nào, nhìn anh cười ngớ ngẩn, rồi quay mặt vào vách lẩm bẩm nói liên miên. Anh chạy ra mộ Đại úy Thìn thắp hương. Quay ra chợ mua ít thức ăn ngon cho ba anh. Loanh quanh qua mấy nhà hàng xóm thăm hỏi. Làm tất cả những việc đó mất bốn tiếng đồng hồ và lúc nào anh cũng để ý đến quán thịt chó Cule, lúc nào anh cũng chực lao đến đó nhưng anh ghìm lại được. "Phải bình tĩnh". Hoàng tự dằn lòng, bước chậm rãi khi sắp đến ngõ quán thịt chó. Hoàng bước vào, bắt gặp cái nhìn đau đớn của Cule, anh giật mình thảng thốt.
- Thùy Linh đâu, bác?
Cule rút trong ngực một tờ giấy, vuốt thật thẳng trao cho Hoàng. Hoàng đọc. Bức thư chỉ vài dòng, anh đọc ngót một tiếng đồng hồ. Anh ngơ ngác nhìn quanh, tự nhiên đôi hàng nước mắt vòng quanh má. Tất cả là vì anh, vì một chút tự ái vớ vẩn của anh. Hoàng nghẹn ngào muốn nói một câu gì mà không nói được.
Thùy Linh đi được bốn ngày. Bây giờ có lẽ đã đến bờ sông Son. Hai mẹ con cô sẽ ở đấy. Bao giờ hết chiến tranh, Hoàng sẽ tìm đến và đưa Thùy Linh về. Hoàng nằm ngửa mặt lên trời, nghĩ vơ vẩn, lòng nặng trĩu ưu tư.
Nếu Thùy Linh lùi lại bốn ngày, hẳn nhiên là đã gặp Hoàng. Nhưng cô làm sao biết được. Cô đi, lủi thủi một mình, ngày đi đêm nghỉ, vừa đi vừa hỏi, mải miết bốn ngày trời mới tới nơi. Cô đứng bên này bờ nhìn sang bờ bên kia thấy túp lều lá mía nhỏ như bàn tay, nằm nghiêng mép chân đê. Con đò đang rời bến, hình như mẹ cô đang chèo. Có lẽ đây là chuyến đò cuối cùng trong ngày của mẹ. Cô cứ đứng im như thế, đợi đến lúc mẹ cô giục: "Chị kia ơi, có sang sông thì lên đò đi, kẻo tối". Cô xắn quần lội ra, sát đò bất ngờ ngước lên, gọi: "Mẹ!". Mẹ cô kêu lên một tiếng và nhảy ào xuống nước. Hai mẹ con ôm nhau, rối rít, rối rít...
Con đò đang tiến đến gần. Thùy Linh phấp phỏng đếm từng nhịp chèo một. Chút nữa thôi mà, đừng nóng ruột.
Mẹ cô sẽ hỏi: "Con có thai với ai?". Cô sẽ trả lời: "Với một thằng đểu, mẹ ạ". Mẹ cô sẽ ôm mặt khóc: "Con đừng nói người ta như thế. Người ta cũng là người...". Mẹ cô bao giờ cũng nhân hậu. Chưa bao giờ Thùy Linh nghe mẹ nhiếc móc ai bao giờ, kể cả người đã từng chơi xỏ mẹ.
Con đò đã cập bến. Người lái đò không phải là mẹ cô. Đó là người đàn ông chừng bốn mươi tuổi.
- Lên đò đi. - Người đàn ông giục.
Thùy Linh lội ra, ngơ ngác hỏi:
- Mẹ cháu đâu?
Người đàn ông dướn mày, nhìn Thùy Linh chằm chằm. Một lúc, ông quỳ xuống hỏi:
- Có phải cô là Thùy Linh không?
- Thưa vâng. - Thùy Linh gần như reo lên - Mẹ cháu đâu, bác?
Người lái đò cắm sào, đứng ngoảnh mặt sang bờ bên kia thì thầm:
- Trước khi chết, mẹ cháu nhắc tên cháu hoài...
- A á á!
Thùy Linh rú lên. Một tảng đá đập vào trán cô, sau đó là gió, hun hút gió. Người lái đò bế xốc cô lên đò, hối hả chèo sang bờ bên kia, nơi có túp lều lá mía. Thùy Linh đã chậm chân. Thím Hoa bị trọng thương trong khi chèo đò đưa một tốp thanh niên "ba sẵn sàng" qua sông. Thím vừa tắt thở cách đây bốn ngày. Một cái chết bình thường như mọi cái chết bình thường của những người dám sống để mà chết. Nếu Thùy Linh lùi lại bốn ngày sẽ gặp Hoàng, đi trước bốn ngày sẽ gặp mẹ cô. Tất cả hình như là sự bày đặt trớ trêu của số phận. Bây giờ cô đang nằm trong túp lều lá mía, thổn thức khóc gọi mẹ mình. Hoàng đang nằm trên hòn đá "Trịnh Nguyễn phân tranh" đau đáu nghĩ về cô. Ba Hoàng đang ngồi nói chuyện với cái bóng của mình trên vách. Trần Hới đang cúi đầu xuống bộ ngực non tơ của Lệ Minh, thì thầm: "Anh yêu em, anh không thể sống thiếu em được". Cule đang ra thăm mộ Đại úy Thìn, ông tự nguyện lãnh chăm sóc phần mộ Đại úy trong khi mọi người đều đi vắng. Bác Cả Rí đang đặt bẫy lươn. Ông Lê Đức Huy vừa vồ được một con rắn mối, ngồi nhai ngấu nghiến. Bỉ đang bịt miệng cười một mình. Họa sĩ Tư đang ngồi trong phòng xét hỏi ở thị xã Đ. Bà Hiền đang vung roi múa hát... Vào lúc nắng đã tắt, li ti những ngôi sao mờ, đấy là một buổi chiều ảm đạm của thị trấn.
Tôi hỏi ba tôi:
- Chiều ấy thuộc vào ngày nào?
Ba tôi đeo mục kỉnh, run run lật cuốn sổ nhật ký đã nhàu nát của ông lẩm nhẩm đọc, rồi ngước lên trả lời:
- Đó là ngày 6 tháng 10 năm 1966.
Năm đó tôi tròn mười tuổi.
Huế: Xuân - Hè - 1988
N.Q.L







[1] Ngày không quân Mỹ tấn công ồ ạt miền Bắc Việt Nam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét