Ua chầu chầu... Nguyễn Quang Lập

Ngô Minh
  
             
Tôi chọn mãi cái tít cho bài viết về Nguyễn Quang Lập. Đọc lại Ký ức vụn, bỗng lóe lên, đây rồi: Ua chầu chầu Nguyễn Quang Lập. Cái giọng văn  tếu táo đó hợp tạng Lập chăng ? Tôi và Lập cùng ở Huế từ năm 1987, cùng vô Hội Nhà văn một lần, lại cùng quê và đều ham rượu, nên anh em thân thiết lắm. Bởi thế mà trong các entry “bạn văn” trên blog Quê choa, sau này chọn lại thành Ký ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn, Bạn vănthỉnh thoảng Lập lại nhắc Ngô Minh nói thế này, Ngô Minh nói thế khác… 


Có tay mọt sách, gặp ở Đông Hà, liền bắt tay tôi lắc lắc: “Em đọc Ký ức vụn, không có bài riêng về anh, nhưng hình bóng Ngô Minh trong ấy đậm lắm…”. Thế là mình được thơm lây cái nổi tiếng của Lập rồi. Hồi 1988, tôi viết bài thơ dài Tìm tôi tìm Huế, có đoạn về Dương Thành Vũ dựng cái chòi ở nghĩa địa để ở: Bạn là người ngoài cuộc đời/ uống bóng mình xạm đen râu ria đáy chén/ Câu thơ chưa đủ ấm/ kể chuyện tiếu lâm nghe tiếng mình cười…Có buổi rượu say, Lập khóc hu hu: “Anh em mình thân thiết thế, sao anh viết thơ về cha Vũ hay rứa, mà không có câu mô cho em”. Tất nhiên Lập chỉ mượn cớ để khen thơ. Nhưng tôi thì bị ám ảm với lời trách ấy tới giờ.
           Nguyễn Quang Lập bắt đầu được bạn đọc chú ý từ những truyện ngắn đầu tiên xuất hiện trên Tạp chí Sông Hương như Người lính hay nói trạng, Đò ơi,  Cây sến lửa… Lúc đó Lập 30 tuổi, chưa vợ, chuyển từ bộ đội điều khiển tên lửa ở Đà Nẵng về Huế. Mọi người xôn xao tìm đọc. Còn Lập thì suốt ngày đi uống rượu và nói trạng ngất ngư. Hết nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, lại đến nhà Ngô Minh, rồi quán cóc vỉa hè...Lập thông minh, hóm hỉnh, nói năng tếu táo, có khi bốc đồng, nhưng rất thật bụng. Hắn đặc biệt giỏi kể chuyện tiếu lâm. Sau Đại hội Nhà văn trẻ lần 3 (1985) ở Hà Nội, các nhà văn được tham quan Nhà máy thủy điện Hòa Bình đang xây dựng. Trên xe, Lập kể chuyện  tếu làm mọi người cười nghiêng ngả. Đại loại những chuyện như nhà văn Huế ngu ngơ lặn lội vô Sài Gòn mua thuốc bổ cho vợ  uống để vợ “múp” rờ cho mát tay, lại mua phải thuốc tăng trọng lợn, nên cô nào cũng tăng trọng một tháng một hai ký, mập thù lù như thùng phi. Chuyện xây nhà lầu cho văn nghệ sĩ không cần xây hố xí... Tay tài xế cười ngất ngư, đít cứ nhấp nhổm. Không nhịn được cười, nó kêu lên: “Đừng tếu nữa các bác ơi, đường đèo núi, em mà lạng tay lái là xe xuống vực đấy!”.
Lập hút thuốc đen bóng cả năm đầu ngón tay. Chưa vợ mà sáng nào cũng dậy lúc 5 giờ, đun nước, súc ấm, pha chè Thái thật đặc, rồi ngồi hút thuốc phả khói xanh um, mắt nhìn ra đường lim dim như một triết gia. Lúc ấy tôi cũng không mấy khi tỉnh rượu để xem xem tại sao văn chương Lập lại hấp dẫn và xúc động đến vậy. Cho đến khi cuốn tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng (1989) của Lập ra đời với bao lời khen, cùng với búa rìu dư luận, rằng nhà văn đang “phủ nhận, bôi đen, cười cợt đối với lịch sử”, thì tôi giật mình, mới chú tâm đọc lại văn Lập.
Và tôi nhận ra cái hay ấy, cái mà có nhà phê bình  gọi là  “phủ nhận”, “cười cợt” ấy chính là cái chất người thật - con - người - nhân - loại trong từng nhân vật mà Lập đã phát hiện ra.  Mà chuẩn mực đạo đức- thẩm mỹ lúc đó lại luôn là ta tốt –địch xấu, ta thắng-địch thua, cho nên Lập bị búa rìu là phải. Phải nói rằng, cùng với Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh, Nguyễn Quang Lập là một trong ít nhà văn đầu tiên đưa cách nhìn mới về chiến tranh với tất cả những bi thương, đau đớn của nó vốn như nó đã xảy ra vào chuyện. Nhờ thế mà bức tranh hiện thực chiến tranh trở nên chân thật, sinh động hơn nhiều các tác phẩm viết theo lối cổ động. Nhân vật Cu-muôn trong chuyện Cây sến lửa không thể hiện “lập trường” khi giết Ba-đong, kẻ phản trắc: “Không giết mi, mi hại nhiều lũ làng nữa, phải giết thôi, nhưng mi là bạn tau, tau thương mi lắm”. Nói được câu đó, Cu – muôn mới là con người thật. Hay trong kịch “Mùa hạ cay đắng”, có nhân vật là Chủ tịch thị trấn, nhưng lại nhát, sợ máy bay Mỹ đến đái ra quần. Mỗi khi máy bay đến, hắn lại run rẩy chui xuống gầm giường rên :” Trời ơi, sao họ lại cơ cấu mình làm chủ tịch làm gì …”. Những “cái thật” ấy làm cho văn chương viết về chiến tranh của Lập đáng tin cậy hơn, và cuộc chiến đấu ấy có giá cao hơn.   Và Lập vẫn trung thành với cái thật ấy trong suốt mấy chục năm cầm bút ở nhiều thể loại khác như văn chương, sân khấu, phim. Nhờ vậy mà ở các vở kịch hay phim như Trên mảnh đất người đời, Đời cát, Thung lũng hoang vắng… của Lập đều làm cho người xem rơi nước mắt vì số phận bi thương, vì tấm lòng bao dung nhân hậu của các nhân vật. Phim, kịch của Lập ăn khách, được giải cao vì cái chất người rất thật ấy.    
         Lập trực tính, bộc tuệch, khi công tác tại Sở Văn hóa thông tin tỉnh, có người hỏi: “Làm việc ở đó thế nào?”. Lập ngay tức khắc ứng tác, hát nhại theo điệu các bài hát cổ động lúc bấy giờ: “Ngành văn hóa thông tin vinh quang. A… điều ấy đã rõ ràng. Nói năng thì cao sang. Công việc thì làng nhàng. A… em đã hiểu rồi... cái ngành trời ơi đất hỡi!”. Lập hát thế mà ở Sở ấy ai cũng cười tán thưởng, võ tay khen hay, hay...Năm 1989, ở Huế xảy ra chuyện tranh luận giữa những người ủng hộ nhạc tiền chiến (những bài hát của Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Văn Thương… trước 1945) và những người cho nhạc tiền chiến là nhạc vàng. Tại một cuộc hội thảo, Lập xin phát biểu. Ai cũng biết Lập bao giờ cũng ủng hộ việc phổ biến nhạc tiền chiến, vì nhạc tiền chiến là thành tựu lớn của âm nhạc Việt Nam. Nhưng đứng lên Lập không nói gì mà lại xin hát bài “Đặt vòng” tự biên, “viết theo kiểu nhạc bây giờ”: “Rủ nhau em đi đặt vòng. Vòng số 8 hay vòng số 9, Vòng nào vừa thì em cứ đặt. A… em đã đặt vòng, Tổ quốc ơi, từ nay tự do thoải mái…”. Thế mà tiếng vỗ tay lại vang dội chưa từng có. Thì ra ai cũng hiểu ngụ ý của Lập… Tính Lập thẳng tính thế, nên không ít người ghét. Trong bài báo viết về “cái tâm nước bọt” của không ít người trong ngành điện ảnh gần đây, Lập kể: “Vương Đức xưa làm phim Cỏ Lau, tìm trợt mặt một diễn viên đóng vai nữ phụ, mừng hơn cha chết sống lại. Cô này nói em từ chối nhiều vai rồi, nhưng vai này hay lắm, khổ mấy em cũng làm… Cô này lại nói Quảng Trị là chiến trường ba em chiến đấu… chết em cũng đi. Vương Đức nghe suýt trào nước mắt. Đến khi nói chuyện tiền nong, cô đòi một đống tiền cao ngất, gấp đôi vai diễn viên chính, Vương Đức cũng cắn răng nghe theo. Tưởng thế là xong, đến ngày vi hành cô gọi điện đòi thêm một đống tiền cao ngất nữa, nói tiền bảo hành cho bộ giò của cô. Vương Đức nghe suýt té xỉu, đành thank and bye người đẹp cùng với cái tâm nước bọt của cô”. Viết thật như vậy dễ bị “căm” lắm. Nhưng như thế mới chinh phục được bạn đọc ngày càng khó tính.

        Hoạt ngôn, bỗ bã là thế, nhưng Lập lại nhát gái. Tôi thấy thế. Có lần  tôi chủ động tạo ra một cuộc vui rượu - thơ ở làng cổ La Chữ cách Huế chín cây số. Tôi làm ông mối rủ một cô gái đẹp long lanh, lại hát hay, mới 20 tuổi đi để cho Lập làm quen. Nhưng suốt buổi tối ngồi bên người đẹp, tôi thấy Lập mặt như ngỗng  ỉa. Đêm đó đi về xe đạp của tôi bị hỏng xăm, Lập phải chở tôi ở giàng xe phía trước, chở người đẹp phía sau, rồi một tay vác xe đạp hỏng của tôi, tay kia lái xe đi từ La Chữ về Huế. Những năm 1986 - 1988, Lập sống trong một gian phòng  bốn mét vuông vừa kê đủ cái giường ngủ ở 22 Lê Lợi, Huế. Chủ, khách vào nhà nghĩa là phải lên giường. Gay go hơn là phòng bên có một cô gái trẻ xinh đẹp tên Thu, trắng trẻo, múp máp, răng khểnh lại hay cười và thường mặc áo ba lỗ. Hai phòng cách nhau bằng tấm cót nứa, có thể ghé mắt nhìn. May sao, giữa lúc đó, xuất hiện cô gái Ba Đồn Nguyễn Thị Hồng vừa đi lao động ở Liên Xô về. Hồng cũng trắng trẻo, có gương mặt lúm đồng tiền phúc hậu, lại cùng quê. Lập bị hớp hồn ngay. Lập nghèo trên răng dưới ca-tút, Hồng “đi Tây” có được ít  hàng Liên Xô mang về, hai đứa mang ra chợ Đông Ba bán sạch mới đủ tiền để sắm sửa, tổ chức đám cưới. Bởi thế mà ba đứa con đều có tên tục gọi ở nhà  là  bi - líp - mayo, tên những thứ phụ tùng xe đạp. Vì có bi, líp, may-ơ mới có đám cưới, mới  sinh ra chúng nó.
           Vài ba năm nay, một lần nữa Nguyễn Quang Lập lại danh nổi như cồn trên Quê choa blog. Với tài kể chuyện tếu, tài dựng truyện của tay nghề kịch phim lão luyện, đặc biệt là giọng văn khẩu ngữ gần gũi, Lập đã làm sôi văn chương mạng. Rồi in thành sách Ký ức vụn, Bạn văn, Chuyện đời vớ vẩn...bán chạy như tôm tươi. Đã có nhiều người bàn luận. Riêng  tôi cứ nghĩ sức hút cũng vẫn là cái “chất thật” ấy của Lập.
Cái thật ẩn đằng sau gương mặt “nhà văn công chức” ấy đều rất người, rất đời. Những “bạn văn” như Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Xuân Sách, Trần Vàng Sao… đều là những chuyện bên lề cuộc đời, có khi họ đã quên mất, nhưng Lập thì nhớ vì Lập quá yêu. Cũng vì yêu mà có “bạn văn” anh đã chạm đến những cái thật “khó nói”, “không tiện nói”, nên bị phản ứng quyết liệt. Ngay những cái đó cũng là vì tình yêu bạn bè mà viết. Sau khi Bạn văn 3 xuất hiện trên  blog Quê choa, anh  Vỹ ( nhà văn Tô Nhuận Vỹ) bức xúc lắm.  Anh hỏi tôi: “Ông đọc cái đó, nghĩ răng? Thằng Lập là đứa em thân thiết, mình rất thương nó, răng nó lại viết về mình rứa hè?” Tôi an ủi: “Bác ơi, thằng ấy nó tếu táo cà rửng thế, nhưng nó yêu bác lắm mới nhớ những chuyện như thế”. Hôm vào Huế, Lập gọi tôi đến Nhà hàng Xanh uống, tôi đã mời anh Vỹ cùng đến để hai người giảng hòa. Lập định thanh minh về cái Bạn văn 3 ấy, thì anh Vỹ xua tay. Thế là chạm cốc vui vẻ… Mới hay có những sự thật đằng sau mỗi con người cũng là vùng “cấm kỵ” cho đến khi xuống mồ. Con người quá quắt lắm, con người ơi!      
             Lập là đứa mau nước mắt. Có lần tôi, Lập, Nguyễn Quang Vinh ( em trai Lập), Mai Văn Hoan, Huy Tập, Lê Thị Mây… uống ở phòng của Vinh ở Huế. Mai Văn Hoan say và khóc: “Tao thương mạ tau lắm, tau thương nàng lắm…”. Hồi đó Hoan và Mây đang yêu nhau. Lập cũng khóc theo. Vừa khuân Hoan say như xác chết lên xích lô vừa khóc hu hu như trẻ con. Ra Tết Sửu rồi, Lập từ Hà Nội vào Huế thăm Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hôm đó Lập đã vào toilet khóc vì ngồi hàng giờ, lắng tai chăm chú mà không nghe được anh Tường đang nói với mình cái gì. Anh em lâu ngày về ngồi bên nhau, lại nói với nhau bằng tiếng Việt, giọng “bọ” cả, thế mà lại không nghe nhau được vì anh Tường bị tai biến nên nói ngọng, thật oan nghiệt, đau đớn. Không khóc răng được.
Sau vụ Lập bị ngã xe, tôi ra thăm khi Lập đã đi lại được. Lập đi lại tập tễnh cho tôi xem rồi bảo: “Anh Ngô Minh xem bây giờ đi kiểu em hề Xuân Hinh cũng không học được !”. Tôi ứa nước mắt, nhưng cố ghìm. Sau đó tôi mời mọi người về quán của Hồng (vợ Lập) ở tầng trệt khu Linh Đàm, cụng ly. Xong, cô bạn ở VTV2 ( tôi gọi là VTV giữa) đi cùng tôi giành trả tiền. Lập đã mắng tôi rồi khóc. Tôi hiểu rằng, Lập buồn vì nghĩ rằng bạn bè đang “thương hại”… Những tính cách ấy đã làm nên một Nguyễn Quang Lập trong Ký ức vụn chân thành mà xa xót. Chắc chắn Lập sẽ được ghi danh là người đầu tiên khởi xướng dòng văn học khẩu văn, tạo ra một loại ngôn ngữ văn xuôi mới, thời hiện đại.
Khẩu văn, phương ngữ, nói tục cũng là một cái thật làm nên phong cách văn Lập trong Ký ức vụn, Chuyện đời vớ vẩn…. Thứ “văn chương vô trùng” (chữ của PGS.TS Trần Ngọc Vương) sạch sẽ làm mất đi sự thân mật, thù tạc dân dã, đời thường nơi chiếu rượu. Những chữ tục như ẻ vô, cứt đái… tạo ra ngôn ngữ nhân vật rất khu biệt, gây bất ngờ.
          Cái hay là Lập biết sử dụng nói tục, phương ngữ ở mức độ nào để câu chuyện cuốn hút, mà không gây phản cảm. Bây giờ ngôn ngữ Nguyễn Quang Lập trong Ký ức vụn, Bạn Văn đã bắt đầu xâm nhập vào đời sống. Ra Đồng Hới cuối tháng rồi, khi công bố danh sách Ban chấp hành Hội văn nghệ mới, có người thốt lên: “Ua chầu chầu, chấp hành bữa ni trẻ hè”. Ua chầu chầu là chữ của Lập. Những chữ như hay hè, hay hè, thất kinh, thế a, thế a… trong Ký ức vụn hay Blog Quê choa cũng đã được nhiều người sử dụng. Ngay hai chữ “bọ Lập” từ phương ngữ đã thành quốc ngữ khi nào không hay. Ai cũng gọi “bọ Lập” rất  thân tình, Nghĩa là Lập đã tạo thêm chút vốn từ vựng cho cuộc sống dân gian thêm phong phú. Đó là lập ngôn đó, Lập nờ…




Related Posts:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét