HE HE, NHÀ VĂN NGUYỄN QUANG LẬP “ĐẠO VĂN”!

FB Thong Dang
No photo description available.
Như đã nói hôm trước, tôi rất thích đọc Nguyễn Quang Lập (thực ra là “nghe audio”), nhất là các truyện ngắn của anh như những truyện trong tuyển tập “Ký ức vụn” (truyện dài của anh tôi cũng có đọc (he he, chính xác là “nghe audio”) một hai cuốn, chẳng hạn như “Những mảnh đời đen trắng”, cũng hay nhưng không xuất sắc). Thế nên, khi thấy quyển “Chuyện đời vớ vẩn” của anh trong tủ sách của tôi không biết mua hay ai cho hồi nào mà chưa đọc, lại lật sơ xem qua thấy có nhắc đến nhiều cái tên tôi biết, nên thích lắm, thích đến độ tôi phải tháo bìa và dùng kim đóng gáy lại cho chắc để cầm cho đã tay và để giữ sách được lâu. Đóng dán xong xuôi, đang tính đọc ngay vào sáng hôm sau thì lại nhận được một quyển sách khác cần đọc gấp, nên đành gác lại, đến hôm qua mới đem Nguyễn Quang Lập ra đọc, và cũng đọc một lèo.
“Chuyện đời vớ vẩn” dầy 400 trang ghi lại 59 mẩu hồi ức vụn. Nguyễn Quang Lập gọi chúng là “tạp văn”, nhưng tôi muốn gọi chúng là “hồi ức vụn” vì tính chất “người thật việc thật” và vì tính rời rạc của chúng. Đọc những hồi ức này tôi thấy thú vị vì biết thêm nhiều điều mới về giới văn nghệ sĩ. Hoá ra anh chị em văn nghệ họ biết nhau cả. Việc Nguyễn Quang Lập biết Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thành Phong, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phạm Xuân Nguyên, thậm chí cả Trịnh Công Sơn (chỉ nêu tên vài người tôi có đọc có biết) thì không lạ bởi những tác giả này đều ở miền Bắc hoặc miền Trung là nơi anh xuất thân hoặc có nhiều liên hệ. Nhưng tôi rất lạ là anh biết cả Đỗ Trung Quân, người ở Ông Tạ là quê hương tuổi thơ của tôi. Tôi cũng lạ là sao không nghe anh nhắc đến Tạ Duy Anh, hình như hai người khá thân nhau, cũng như sao không nghe anh nhắc đến Trần Mạnh Hảo và Bùi Chí Vinh, không biết anh có quen hai vị này không?
Trong các người được nhắc đến trong ‘Chuyện đời vớ vẩn”, có lẽ Phùng Quán là người anh Lập thân thiết nhất nên có đến ba hồi ức về nhà văn này, hồi ức nào cũng khiến ta ngậm ngùi: Chẳng hạn, “Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán” kể về việc vì muốn có chiếc đồng hồ báo thức cho con gái mà Phùng Quán viết bài và nhờ người em họ ở Nghệ An đứng tên gửi dự “Cuộc thi viết về Lênin” khiến cậu em sau này phải một phen xếch bếch xang bang. “Bí mật 30 năm” thì còn ngậm ngùi hơn, nói về việc sau khi viết “Lời mẹ dặn”, Phùng Quán đã bị “đánh hội đồng” mà “đánh đau nhất, độc nhất” là trong một bài thơ khác có tựa “Lời mẹ dặn – thật hay không” của nhà thơ Trúc Chi. Đọc đến câu “ba chục năm qua mình chỉ làm một việc là tìm cho ra Trúc Chi là ai... vì đời mình tan nát cũng chính ông này chứ không ai khác” tôi thấy thật xót xa. Cũng may là cuối cùng Trúc Chi đó chính là Hoàng Văn Hoan. Tôi nói “may” là vì đó không phải là nhà thơ Trúc Chi rất dễ thương mà tôi từng quen biết ở Sài Gòn mấy chục năm về trước.
Qua sự giới thiệu của Phùng Quán, Nguyễn Quang Lập đến thăm Trần Dần. Trong hồi ức “Nhớ Trần Dần”, Nguyễn Quang Lập kể lại chuyện anh phê bình Trần Dần đã “phịa” trong tiểu thuyết “Người người lớp lớp”, rằng không phải Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo mà chẳng qua khi kéo pháo lên dốc, dây kéo bị đứt khiến khẩu pháo lao xuống dốc núi ầm ầm, Tô Vĩnh Diện “chạy không kịp nên bị chèn thôi”. Nghe phê bình thế, Trần Dần “ngồi yên hồi lâu rồi hơ hơ, ngừng vài giây sau lại hơ hơ, vài giây sau nữa mới hơ hơ hơ thành một tràng, vỗ tay đánh bốp kêu to: Hay! Giỏi! Thông minh!” He he, chuyện vui thật.
Nhưng những chuyện anh kể tiếp thì lại chẳng vui, đó là chuyện một hôm đang đi bộ về phía Hội Nhà Văn, Nguyễn Quang Lập chợt thấy Trần Dần “chống gậy đứng ở phố Nguyễn Du lom lom nhìn ra đường, mấy sợi râu rung rung như sợ hãi như giận dữ”, hoặc chuyện Trần Dần “ngồi bệt trên vệ cỏ bờ hồ [Ba Mẫu], ngồi im như một pho tượng gỗ xù xì, mốc meo”. Riêng chuyện Trần Dần lúc nào cũng ngồi dựa tường trong nhà, “mắt nhìn như thôi miên tường bên kia... ngồi chỗ đó ba chục năm rồi [đến độ] bức tường in bóng anh, bốn xung quanh tường uá vàng, riêng có hình anh ngồi dựa tường trắng nhỡn”. Chuyện này nghe mới thật là xót xa.
Trong “Ông tất nhiên rồi”, Nguyễn Quang Lập nói về việc nhà báo chống tiêu cực để kiếm ăn. Thật quá tệ. Ý này được anh nói rõ hơn trong “Ông quan trọng”, kể về việc các nhà báo “hễ được mời gói thuốc lá Sông Cầu mắt đã sáng trưng, nếu được mời bữa cơm có chai rượu trắng, điã lòng lợn thì gọi là phúc lớn”, để rồi sau đó “khi phát hiện ra giá trị nước bọt, [họ bèn] bỏ chữ buôn nước bọt, trúng cực kì, chưa thời nào buôn nước bọt trúng như thời này, dại gì không buôn...” Nghe những chuyện như vậy của Nguyễn Quang Lập, tôi lại thêm khẳng định về những điều trước giờ mình vẫn nghĩ về cánh nhà báo đã qua và chắc cũng vẫn còn khá nhiều ở Việt Nam ngày nay, và thấy chán.
Cũng chán không kém là những chuyện trong “Nhà văn nhà veo”, kể về các vụ bầu bán Ban Chấp hành Hội Nhà văn với cảnh “ông nào ông nấy hầm hè nhau, ông này nghi ông kia lậu phiếu, rất căng thẳng...” Đọc hồi ức này, tự dưng tôi lại nhớ lại cảnh bát nháo, cãi nhau như mổ bò trong những lần Đaị Hội Nhà Văn hình như anh Trần Mạnh Hảo một lần có kể lại trong một bài viết. Cũng may là Nguyễn Quang Lập còn ghi chú vớt vát thêm là riêng các cụ lão làng như Phùng Quán, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Hoàng Trung Thông, v.v. thì “đến đây chỉ để vui bạn vui bè... mấy thứ phi văn các cụ ớn lắm, sợ lắm, đời các cụ ngấm đòn cũng đã nhiều rồi...”
Dĩ nhiên không phải hồi ức nào nghe cũng xót xa, cũng chán. Có những hồi ức rất vui, chẳng hạn như “Nhà văn chơi blog”. Nguyễn Quang Lập bắt đầu chơi blog năm 2007. Đọc hồi ức này tôi không nhịn được cười khi tác giả tiết lộ là nhờ có blog mà anh viết hăng hơn, nhiều hơn, “bốn năm viết blog, số trang viết gấp đôi số trang viết 30 năm cầm bút cộng lại, thật tuyệt vời”. Nhưng mắc cười nhất là đoạn anh thú nhận chơi blog riết rồi “nghiện, nghiện nặng... nói ra dại mồm, bỏ vợ còn được chứ bỏ blog là không thể, đi đâu lâu lâu là nôn nao muốn về nhà để vào blog xem sao, xem được bao nhiêu còm, bao nhiêu lượt truy cập, thấy nhiều người còm, lượng truy cập tăng vù vù, sướng cái lỗ rốn kinh khủng”. He he, nhà văn có tiếng như Nguyễn Quang Lập mà sao cũng “tầm thường” thế, cũng “đời” thế không biết!
“Khách văn” thì lại càng vui. Trong hồi ức này, Nguyễn Quang Lập kể về các người đang tập tành viết văn muốn tác phẩm của mình được đăng báo đến độ, như trường hợp của một anh từ Đà Nẵng lặn lội mua vé tầu ra Hà Nội, đã “khóc oà, nói nếu anh không đăng thì em tự tử chứ không dám về quê”. Nếu chưa đến mức “khóc oà dọa tự tử” thì cũng nịnh nọt để mong được các đàn anh văn nghệ chiếu cố bằng cách khen các anh rậm rịt, nào là “Ôi cái tên anh Nguyễn Quang Lập, anh Nguyễn Thành Phong (tác giả tập thơ “Đêm ngồi ngã ba sông”), anh Nguyễn Quang Thiều (anh Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, chắc giờ này đang bận vót vót, dán dán, phết phết lồng đèn Trung thu cho các cháu nội ngoại), anh Hồng Thanh Quang (tác giả bài thơ “Khúc mùa thu” được Phú Quang phổ nhạc)... các tên anh mới “đẹp làm sao, đẹp làm sao!”
Cũng trong hồi ức này, Nguyễn Quang Lập còn kể thêm hai chuyện vui. Chuyện thứ nhất là về bệnh “nói dai, nói dài” (hy vọng là không “nói dở”) của các cụ văn nghệ sĩ, chẳng hạn như cụ Vũ Đình Liên nổi tiếng với bài “Ông đồ”, hoặc như cụ Tế Hanh của “Quê hương tôi có con sông xanh biếc / Nước gương trong soi tóc những hàng tre / Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè / Toả nắng xuống lòng sông lấp loáng...”, và lý do của tật “nói dai, nói dài” này là “đang sáng chói trên văn đàn, tự nhiên các cụ bị rơi rất nhanh vào quên lãng... tự nhiên người ta hết quan tâm, ngại quan hệ, thế thôi.” Nghe về bệnh “nói dai, nói dài” của các cụ lão làng văn nghệ thì vui, nhưng hiểu về lý do tại sao các cụ bị “tự nhiên người ta hết quan tâm, ngại quan hệ” thì thấy buồn quá.
Chuyện thứ hai, cũng liên quan đến các cụ nhưng lại “đá vui” cánh nhà văn trẻ (trẻ hồi đó, giờ hết trẻ rồi), đó là chuyện các anh này rất khoái “khoe” được quen biết với các nhà văn đàn anh, khoe được nhà văn này “mời về nhà chơi”, “mời đi ăn bún ốc”, được nhà văn kia “mời đi ăn bún chả”, “mời đi ăn thịt chó” hoặc “mới đi chơi với nhà văn này về”. Đọc đoạn này tôi lại nhớ ngay đến Trần Mạnh Hảo, về tật này chắc anh Hảo là vô địch. Nhưng Nguyễn Quang Lập không đá động đến Trần Mạnh Hảo, mà chỉ đá động đến Nguyễn Thành Phong, bầu Phong là “thằng quen được nhiều người nổi tiếng nhất”! He he, để có dịp gặp Nguyễn Thành Phong, tôi phải “cậy” anh giới thiệu cho làm quen với các “người nổi tiếng” đất Hà Thành mới được. Nhưng mà thôi, chả dại, gặp họ nói chuyện lại mắc công sinh sự, nên chỉ xin được uống chén rượu lạt và thưởng thức món tiết canh của anh mà theo lời Tạ Duy Anh là “danh bất hư truyền” thôi, he he.
Hồi ức “Nghiện thơ” nói về tật thích biểu diễn đọc thơ của chính mình cũng vui không kém: “Làm ra bài thơ, không ai đọc cho, nghe cho thì khó chịu lắm, cứ bứt rứt không yên”, và hễ có dịp ngồi vào chiếu rượu thì “ngồi uống cứ nhấp nhổm chờ ai đó nhắc đến tên mình, rồi khi được chào mời, thì giả đò khiêm tốn, đợi người ta nèo thêm chút nữa, tóm lại rồi đọc cả, vừa đọc vừa ngó liếc mặt người nghe, thấy người ta chăm chú thỉnh thoảng gật đầu đã sướng, nếu ai đó chậc lưỡi, đập đùi khen câu này câu kia hay thì sướng muốn chết, lại tương bài khác ngay, có người tương cả chục bài!” Cuối cùng ai được mời nghe đọc thơ cũng ớn, ra điều kiện “mày muốn đọc thơ thì bỏ tiền ra trả nhuận nghe cho tụi tao, một bài ba ngàn”, vậy mà có người không tự ái, sẵn sàng trả tiền cho người khác ngồi nghe thơ mình, trong sách anh Lập có nêu tên cẩn thận!
Đọc những dòng này, tự dưng tôi nhớ đến anh Đinh Khắc Thiên Chương ở cùng xóm Khuông Việt ngày trước, cứ gặp mặt là anh níu lại bắt nghe anh đọc thơ, làm được kha khá bài rồi thì xoay sở tiền chỗ này chỗ khác để “rô-nê-ô” tập thơ phát khắp xóm! Thấy anh lành tính mà cũng có tài, nên ai nhận thơ biếu của anh cũng vui vẻ góp chút “ấn phí” cho anh. Cũng nhớ luôn các anh Trần Mạnh Hảo, anh Bùi Chí Vinh, ít nhiều hình như cũng có tật này, cũng may là thơ các anh cũng hay, nên nghe mấy anh đọc (trên youtube và facebook thôi) cũng không đến nỗi oải. Riêng anh Đỗ Trung Quân, người cùng khu Ông Tạ xưa của tôi, không biết có “tật” này không, nếu có thì tôi cũng muốn được một lần trực tiếp nghe anh đọc “Tạ lỗi Trường Sơn” và “Quê hương”, là những bài tôi rất thích.
Cực vui có lẽ là mấy hồi ức dính dáng đến thời trai trẻ “khù khờ vác lu mà chạy” của Nguyễn Quang Lập. Chẳng hạn như “Yêu và ăn”, nói về những ngày anh mới đậu vào Đại học Bách Khoa từ quê Quảng Bình lớ ngớ ra Hà Nội như một anh cả quỷnh. Ở chốn “ngựa xe như nước áo quần như nêm” này, Lập nhà ta nhìn gì cũng thấy ngất ngây, cũng thấy lạ, lạ từ cái cầu chì đến cái xí bệt trong trường, lại không dám “tựa lan can, sợ chẳng may lan can gẫy một phát ngã lộn cổ xuống đất thì tiêu”. Rồi bia hơi uống vỉa hè cũng thấy lạ vì trong đời chưa từng được uống, giờ hăm hở uống cho ra vẻ “tay chơi”, nhưng mới uống ngụm đầu đã “lập tức bụm mồm, mặt nhăn như bị, nói đ. mạ, như nước đái bò”! Riêng chỉ việc ăn cơm ở ký túc xá trường là không lạ, nhưng mới được chút “mì ổ nóng dòn, thịt kho đậu phụ, canh cá mè nấu chua” là đã “ngon thật là ngon” rồi. He he, quả là quá tội.
Riêng về chủ đề yêu, có hồi ức “Ba lần yêu cô giáo” cũng cực vui, nhưng không biết ở đây nhà văn của ta có bốc phét không, chứ sao lần gặp em nào cũng đều đại loại là “em sà vào ngực mình, đấm đấm cấu cấu, nói ghét lắm ghét lắm, mình bế xốc em vào nương ngô gần đấy, thế là yêu nhau tới bến”. He he, không biết em nào mà “dễ thương quá chừng chừng” như vậy? A, ra đó là em giáo viên ở Quảng Ninh lúc Lập ở bộ đội. Riêng em ở Quảng Trị, cũng là giáo viên, thì “thơ mình em rất thích, thành thử mình về đó có ba ngày thì cưa đứt đục suốt, hi hi đã đời”. Hình như còn nhiều em nữa, như em Sơn Tây mà “cứ chiều thứ Bảy mình lại nhảy xe ca lên, cơm no bò cưỡi đến chiều Chủ Nhật mò về”. Đại khái là thế, kể về em nào Lập ta cũng khoe được “yêu tới bến”, “cưa đứt đục suốt”, “cơm no bò cưỡi” (chữ của Lập, khá thô tục, he he) khiến tôi cũng đâm nghi hoặc, không biết cha nội này “nói chơi hay nói giỡn”. Nhưng mới đây, Nguyễn Quang Lập có đưa tấm ảnh thời trai trẻ lên facebook, nhìn thấy đẹp trai phong độ ra phết, nên cũng chẳng biết chừng!
Chuyện trai gái thời trẻ thì tôi cũng đã trải qua, tuy không được “em yêu tới bến” vì không “đẹp giai phong độ” như Nguyễn Quang Lập nhưng cũng không lạ gì lắm cái trò “táy máy” chút đỉnh của mấy thằng con trai. Nhưng hồi ức “Nhậu nhẹt ba miền” nói về “văn hoá nhậu” khác nhau giữa ba miền thì tôi chưa biết nên thấy đúng là một bất ngờ thú vị. Chẳng hạn anh nhận xét dân văn nghệ Miền Nam thì “làm cật lực đến chiều mới đi nhậu, ai mời nhậu người đó trả tiền, mà đã nhậu rồi là nhậu tới số”, còn dân miền Bắc thì “túc tắc đến sở... vật vờ ra vào” cho hết giờ, khi gọi nhau đi nhậu thì “nhậu xong ai có tiền thì trả, thành thử đến giờ thanh toán cứ nhìn nhau nói cười nhàn nhạt, nhiều anh cứ đúng giờ đó thì nhìn đồng hồ đứng dậy, nói mình có việc phải về sớm, bí quá thì nhảy đại vào toilet, hi hi...” Có lẽ hồi đó cánh anh em văn nghệ nghèo quá, nên vậy, giờ chắc khác nhiều.
Riêng dân miền Trung thì “nhậu nhẹt bất tử, bất kể giờ nào miễn có tiền” và “vẫn giữ được thói quê, bạn bè từ xa đến không thể không mời về nhà, làm mâm cơm đãi bạn, nhậu nhẹt ở nhà chán chê rồi mới đi ra quán”. Dễ thương thế. Nhưng bất ngờ nhất là khi anh tiết lộ thêm hai nét “rất độc” trong “văn hoá nhậu” của miền Trung. Nét thứ nhất rất “độc đáo”, nên nhân rộng, là như sau: “Vì ngày nào cũng nhậu, nên ít ai có khả năng bao sân, thành ra có kiểu nhậu nối dài, anh đến sau bảo, kể từ đây là phần của tôi nhé... [cứ thế cứ thế] mỗi anh chịu một khúc”. Nét thứ hai lại rất “độc địa”, chẳng biết phải nói sao, đó là “kiểu nhậu bắt Fulro, nhậu giữa chừng thì “mời” chủ doanh nghiệp hoặc các quan chức tỉnh ra nhậu chơi để họ trả tiền hộ... Mấy ông này lập tức hiểu ý, vọt ra làm đôi ba chén rồi giành lấy bill thanh toán cái rẹt”. Nghe kể về nết nhậu này mà chỉ biết cười méo xẹo. Cũng may là các anh ấy còn biết kiểu nhậu bắt Fulro là “lụy đến đạo đức nghề nghiệp”!
Trong “Chuyện đời vớ vẩn” còn nhiều nhiều các hồi ức đáng đọc khác, có cái đọc thấy ngậm ngùi như “Chuyện củ khoai khổng lồ”, có cái đọc thấy thương như “Thuở nhỏ đi xem phim”, “Bánh Trung thu”. Đọc hai hồi ức về xem phim và ăn bánh này tôi chợt nhớ đến truyện “Con chó Giôn” của anh mà tôi dùng làm bài đọc cho sinh viên Mỹ. Khi biết mẹ mình quyết định bán con chó có tên là Giôn cho người ta làm thịt để có tiền trả nợ, Lập viết: “Mình ngồi ôm nó khóc theo. Ngồi ước sao bỗng nhiên được mười đồng. Ngồi ôm con Giôn giữa cát nắng chang chang, khóc mãi, khóc khan cả cổ, nói đi nói lại, ui trời ơi …răng nhà tui nghèo ri hè.” Thấy thương quá. Cuối cùng là mấy hồi ức có thể gom vào dưới cái tên chung là “vớ vẩn, tào lao”, đúng như chữ dùng của anh. Trong các mẩu tào lao vớ vẩn này, có chuyện kể để minh oan cho Hoàng Phủ Ngọc Tường về những gì xảy ra hồi Mậu Thân ở Huế.
He he, nẫy giờ cứ nói dông dài thành thử quên béng mất “chủ đề” chính của bài viết này là Nguyễn Quang Lập “đạo văn”. Chuyện là như vầy, tôi đang đọc ngon trớn bỗng tự dưng khựng lại, lẩm bẩm: “Chết cha, đoạn về Trịnh Công Sơn này mình vừa đọc rồi mà? Hay mình quên đánh dấu trang nên vô tình đọc lại trang đã đọc?” Thế nên tôi vội rà ngược lại. Không, hồi ức này rõ ràng mình chưa đọc, nhưng riêng đoạn này thì quen lắm. Sao vậy cà? Liền tẩn mẩn dò lại các hồi ức phía trước, thì đây, cùng một đoạn đã xuất hiện trong “Chơi thơ”, giờ lại xuất hiện y chang đến từng chữ trong “Tết văn nhân”! Thôi được, cũng chỉ có một lần, có lẽ nhà văn đãng trí, thông cảm cho qua.
Thế rồi đọc tiếp, thế rồi lại khựng lại. Câu chuyện về “thằng Tý làng Đông bị mù hai mắt” đã xuất hiện trong “Tết về lại nhớ”, giờ lại thấy trong “Tết của người bạn mù”! Rồi chuyện được “múc nước giếng cho Ái Vân rửa chân, sướng rêm người” đã được viết trong “Xóm nhỏ của tôi” sau lại được “copy” y chang trong “Chuyện đời vớ vẩn”. Riêng “Chuyện ma” về “hai bộ hài cốt bộ đội, một nam một nữ” ôm nhau chết dưới hầm thì càng không thể nhầm lẫn bởi câu truyện rất nhân văn này tôi cũng dùng làm bài đọc cho sinh viên Mỹ, vậy mà sao bây giờ lại có nguyên một đoạn dài ngắt ra in xen vào đây? Thật là quá đáng! Cứ thế cứ thế, tôi đếm được trong “Chuyện đời vớ vẩn”, Nguyễn Quang Lập có tất cả 7 lần “đạo văn”. Dĩ nhiên ở đây anh chỉ đạo văn của chính mình, nhưng đạo văn bất cứ đâu và của bất cứ ai thì cũng vẫn là đạo văn, he he.


Bình luận
Chia sẻ

Một ngày Tà Ru



Sáng. Vẫn ngồi ban công ăn sáng đọc sách
Văng vắng một cái gì
Liếm mép nhìn lục bình trôi sông Sài Gòn
Này hỡi lục bình mày làm gì thế
Tự do hay sống mòn?
Trưa. Vẫn nằm giường nệm ngủ điều hòa
Thiêu thiếu một cái gì
Tắt mobile lại mở mobile
Chẳng chờ đợi điều gì vẫn cứ chờ
Kinh.
Chiều. Vẫn viết vẫn lướt mạng
Sờ sợ một cái gì
Giật thót mobile giật thót chuông cửa
Mình thật đáng thương thật đáng tởm
Địt mẹ.
Tối. Vẫn ngủ ngon vẫn thức lúc 2 giờ sáng
Nhớ quá bọn xã hội đen cùng phòng
Sống với chúng dễ hơn, an toàn hơn sống với cứt
(Tức bọn giả cầy trí thức)
Khó ngủ quá
Chổng mông đánh rắm một phát chơi
Mình rắm xong rồi lại ngửi
Ngẩn ngơ ngồi dậy ngẩn ngơ cười.

Nửa đêm sinh nhật Cu Líp 7/4/2015
Nguyễn Quang Lập

(

Thương nhớ vỉa hè




Thương nhớ gì lại thương nhớ vỉa hè, có mà dở hơi. Nhưng mà thương nhớ thật, nhiều khi tay chống cằm nhìn qua cửa sổ thấy vỉa hè nhốn nháo ngày nay bỗng nhớ thương da diết vỉa hè ngày xưa.

Nhớ thương vỉa hè là nhớ thương của những kẻ chân quê. Xứ mình là xứ nhà quê, nơi đô hội cũng chỉ rặt dân quê cả mà thôi, dù có hóa trang đến giời thì cái chất quê kiểng không sao bỏ đi được.

Hà Nội có cây xanh có ao hồ có vỉa hè, thiếu ba thứ đó không ra Hà Nội. Cái chất quê nghìn năm xứ Việt tụ cả lại nơi đây, tạo nên vẻ đẹp thuần Việt mê hồn. Phố xá bây giờ ở đâu cũng nhung nhúc đám giả cầy, nhờ có ba thứ đó Hà Nội vẫn nguyên bản sắc. Nói Hà Nội thanh lịch là nói cái vẻ dịu dàng nền nả kín đáo e ấp chân quê của nó chứ không phải thói trau tria tô lục chuốt hồng cả áo quần lẫn ngôn ngữ, kiểu như ông tiến sĩ ngôn ngữ X. từng nức nở Hà Nội thanh lịch không nói ăn mà bảo là xơi, đừng có mà nhầm.

Người Việt ở xứ Tây sở dĩ được người ta quí mến vì tư chất thông minh cộng với chất quê Á Đông đổ ra cả tấn vàng cũng không sao mua được, đừng tưởng bở giở dói thói thị dân nửa mùa ra, ăn cứt với chúng nó có ngày.

Trước đây mình ở Lò Sũ, tít ở trong ngõ sâu, nhà chật người đông, thiếu sáng thiếu khí, thành thử hai phần đời tha thẩn với vỉa hè. Vốn dân quê quen sống thông thoáng rồi, ngồi ở đâu mà thấy gò bó khó chịu lắm.

Vào nhà hàng sang thấy mình bân bẩn tồ tồ thế nào a. Lại thêm nhạc nhẽo, người nói tắt nhạc đi, người nói vặn to lên, người nói cho nghe bài này, người nói ê ê đổi bài kia… Ôi thôi mệt người. Nhào vào các quán bia hơi chật ních người, vừa nói vừa hét, chẳng ai nghe ai, đinh tai nhức óc.

Hồi trẻ mình cũng thích nhào vô mấy chỗ đông đúc ồn ào, giờ già rồi không thích nữa. Giờ nhậu đâu quan tâm đến cái view nhiều hơn là đắt rẻ ngon dở, quan tâm đến cái để chuyện trò hơn là cái để ăn uống. Vỉa hè tĩnh mà không vắng, thoáng mà không thưa, ngồi quán cóc vỉa hè thấy mình đúng là anh dân quê đang ngồi ở sân nhà mình, tự nhiên thấy yên tâm thoải mái hẳn.
Vỉa hè đêm thường dành cho đám cần lao. Hàng Cót chân gà, Quán Thánh bò nướng, Cát Linh chim quay. Phố Đinh Tiên Hoàng có quán chân gà nướng rượu Vân, trải chiếu cả dọc dài, ngồi xếp bằng nhai chân gà rau ráu. Có đêm mình với Bùi Thanh, Lê Đức Dục Báo Tuổi Trẻ ngồi nhậu đấy đến ba, bốn giờ sáng mới chịu ra về.

Xưa hai vỉa hè phố Lò Sũ, bốn gốc vỉa hè ngã tư Nguyễn Hữu Huân- Lý Thái Tổ cũng là phố ăn đêm, vui lắm. Khách chủ yếu là đám dân quê tứ phương về Hà Nội kiếm sống, kẻ xích lô người xe ôm, kẻ thợ mộc người phụ nề, kẻ tầm quất người ăn xin, cả trộm cướp đĩ điếm nữa… chừng nửa đêm tụ về trải chiếu kê gạch lót báo, tụm năm tụm ba ăn ăn uống uống vui lắm.

Lam lũ suốt ngày, giờ là lúc thảnh thơi nói chuyện trên trời dưới biển, tuyệt không ôn nghèo kể khổ, than vắn kể dài. Người nói, cụ Kiệt về nghỉ uổng quá nhỉ, người nói thôi cho cụ nghỉ, cụ tẩm bổ tắc kè cá ngựa hầu vợ chút, chứ bắt cụ làm cách mạng hết đời a, mọi người nói phải phải. Cứ thế mà râm ran. Người nói thằng Bin Clinton sang mình, nó đi ăn cơm bụi như tụi mình nhé, người nói phét, tổng thống mà đi ăn cơm bụi. Cứ thế mà ồn ào.

Mình viết lách đến nửa đêm lại tót ra đấy ngồi chầu rìa hóng chuyện, ối chuyện hay mót được từ những đêm như thế.

Sáng ra vỉa hè hứng hết dân phố, đâu đâu cũng có quà sáng, quán nước chè. Pha chè uống ở nhà dù ngon mấy cũng không thể bằng ngồi quán cóc. Hớp chén chè nóng, ăn cái bánh rán cái kẹo lạc, hút điếu thuốc lào, vếch mày ra phố nhả khói… sao mà thấy đời thật thong dong.

Dọc phố Bà Triệu các cụ đồ nho ngồi bán chữ. Thỉnh thoảng mình vẫn lang thang tán chuyện các cụ chơi vui. Cụ nói, 10 người đến xin chữ thì có đến 8 người xin chữ nhẫn, chẳng hiểu sao. Cụ nói, sao nữa, xin phúc lộc thọ làm gì, mấy thứ đó trời phân phát hết rồi còn đâu nữa mà xin. Cụ nói, phải phải, xứ mình muốn yên phận thì phải biết ôm lấy chữ nhẫn, không nhẫn không xong đâu.

Hàng Tre, Đường Thành xưa là nơi dân cắt tóc hành nghề. Cứ một cái gương treo, một cái ghế mộc, dắm ba cái dao kéo tông đơ là thành quán cắt tóc. Cắt tóc ở đấy vừa nhanh, không phải đợi, vừa đẹp vừa rẻ. Đa số thợ cắt tóc là bộ đội phục viên, vừa cắt tóc vừa kháo chuyện văn nghệ sĩ.

Người nói, ông Nguyễn Văn Thiệp tịt văn chương rồi, vừa xây cái tượng Phật to lắm. Người nói, ông Ngô Bảo Ninh viết Nỗi buồn chiến tranh, sao không viết Nỗi buồn hòa bình nhỉ. Người nói, ngu ngu, Ngô Bảo Ninh à, Phạm Bảo Ninh chứ. Người nói, ngu ngu… ông này Hoàng Bảo Ninh con ông Hoàng Tuệ. Người nói, tôi biết Bảo Ninh nhé, ông hay ra mua rượu quán vợ tôi, vợ ông là giáo viên đẹp lắm, chân dài cực. Vui ghê, không đến đấy cắt tóc thật phí cả nghề văn.

Dọc đường Hùng Vương, Lý Thái Tổ, Phan Đình Phùng… ôi, nhiều đường lắm, cứ vài trăm mét lại gặp mấy ông hưu trí ngồi đánh cờ, lúc lúc lại thấy một ông bày cờ thế ngồi chồm hổm thách khách bộ hành.

Ở góc phố nào cũng có tụi con nít chạy loăng quăng đá bóng, nhảy dây. Mấy thiếu phụ vắng chồng, dắt con nhỏ tha thẩn đứng hết góc này sang góc nọ, gió thổi tóc bay váy lộng, vào mùa lá rụng cảnh ấy đẹp lịm người.

Bây giờ thì không còn nữa, một khi hàng hóa túa ra là vỉa hè teo lại nhuờng chỗ cho mưu sinh. Ô tô chiếm hết lòng đường là xe đạp xe máy nhảy lên hết vỉa hè. Mỗi đường phố chỉ còn vài khúc thảnh thơi, còn thì mất sạch, mai mốt có lẽ không còn cái vỉa hè nào cho đúng nghĩa vỉa hè Hà Nội.

Không còn vỉa hè cũng tắt luôn tiếng rao đêm. Tiếng quất ơ ông già mù tầm quất, tiếng lộn ơ chị Mến phố Hàng Than, tiếng bánh bao nóng giòn đê, bánh mì nóng giòn nào vẫn rỉ rả vang lên đêm tĩnh mịch… Khắp chốn kinh kỳ, ở đâu thị trường thời mở cửa bao vây ở đó văn hóa Việt chỉ còn ngắc ngoải sống, không phải chết tức tưởi là may, văn hóa vỉa hè thì cũng thế.

Nhớ mãi một chiều Trần Dần chống gậy đứng phố Nguyên Du lom lom nhìn ra đường, mấy sợi râu rung rung như sợ hãi như giận dữ. Thốt nhiên ông ôm ngực ho, vừa ho vừa chỉ ngón trỏ lên trời, nói, tôi muốn nuốt Hà Nội vào lòng, trớ ra đô thành dởm. Đó là câu thơ cuối cùng mình nghe Trần Dần đọc, ông bỏ Hà Nội về trời năm 1997, năm mà vìa hè chính thức bị thương trường thời mở cửa xâm lăng.

Thế nên mới nhớ. Nhớ Phùng Quán guốc mộc áo cánh lui cui đi dưới mưa phố Phan Đình Phùng. Nhớ Bùi Xuân Phái ngồi dưới cây phượng già phố Hàng Buồm gật gù chén rượu Vân. Nhớ Tào Mạt chân nam đá chân chiêu đường Hoàng Diệu. Lưu Quang Vũ đứng tè góc phố Yết Kiêu. Nhớ cả Trịnh Công Sơn thỉnh thoảng ra Hà Nội, trắng đêm tiệc tùng lại trở về góc đường Lê Phụng Hiểu với chén rượu trắng cầm tay, rưng rưng hát một câu gì.

Ôi không còn vỉa hè, danh sĩ nước Nam ta biết ẩn nấp vào đâu….

Yến sào Bọ Lập liệt truyện

Lương Duy Cường



Thuở ấy, dân văn chương thảm lắm.

Rồi nhân cái vụ giải thưởng văn học năm của xứ kinh kỳ được trao thưởng ngang giá ký thịt heo, Bọ Lập quyết bỏ bút, đói nhỡn tiền vẫn bỏ.

Là tính thế chứ bỏ văn chương thì Bọ Lập làm gì ra tiền? Khó thế.

Dạo ấy, bạn bè Bọ đổ xô vào đầu tư nuôi yến sào. Toàn văn nhân nhà báo cao sang, thua keo này bày keo khác, rốt cuộc cơ bản là thắng lớn.

Gì chứ yến sào thì khỏi nói về giá trị dinh dưỡng, cứ gõ google thì biết. Ngay như Bọ Lập đây, nhiều năm ở trong tình trạng “tiền mang ra chợ chưa tiêu đã hết”, quá chán với cảnh lỏng ngỏng súng ống nhưng đạn dược thì không, thế mà bạn đãi chỉ đúng một chén yến chưng về đã trằn trọc khó ngủ.

Bà Hồng - vợ Bọ Lập bữa ấy tảng sáng đã hơn hớn xách giỏ đi chợ, cứ tưởng là hôm qua chồng đi nhậu được đãi đúng cái món ngầu pín. Không thấy chợ bán ngầu pín, bà tắc lưỡi mua tạm lạng thịt bò tươi rói với một bịch giá đỗ thật tươi.

Thế là Bọ Lập cũng quyết nuôi yến. Bà Hồng nghĩ thôi thì chiều chồng cho được việc. Vả lại, càng già ổng càng ham vui; càng không viết thì bạn bè càng kéo đến động viên này nọ. Rồi cả fan hâm mộ cũng đến để nhìn mặt cho biết, vì không đi thì không viết, mà không viết thì chắc chắn Bọ Lập có ở nhà. Mà ai đến, Bọ Lập cũng hô vợ “bia bia, rượu rượu nha bà”.

Khổ, rượu bia đều phải thứ ngon, mồi phải đẳng cấp, không thì khách về là mặt chồng cứ như mất sổ gạo thuở nào. Bà chán quá rồi nhưng vẫn thương chồng, thương cái kiếp phu chữ bạc như vôi.
Khởi nghiệp không vốn, không kinh nghiệm nên khó khăn nhỡn tiền. Bọ Lập thì vẽ ra dự án rất hoành tráng. Lại mời thầy pháp về cắm cho một chỗ phải phong thủy mọi nhẽ, làm ăn phải thắng chứ thua thì làm gì cho mệt.

Ông thầy pháp mất nhõn một tuần vâng vâng vâng dạ dạ, em đang em đang, ý là đang chọn chỗ nào hợp tuổi Bọ Lập nhất, phát vượng nhất Sài thành. Rốt cuộc là cắm ngay một mảnh ở vùng đất thép.

Tình thực, Bọ Lập làm thế chỉ để dụ bà Hồng thế chấp nhà mà đầu tư, chứ lão thì cả đời tin gì ba chuyện ấy.

Hay thật, bà Hồng tin ngay. Ừ thì có sao đâu. Chồng đã quyết thì nghe chồng chứ nghe ai. Bạn bè nghe tin cũng đến, chỉ bày tận tình kinh nghiệm dụ yến. Ông nào nói cũng hùng hồn lắm, lãi to, thắng lớn, toàn là phải đuổi bớt yến không thì quá tải. Bà Hồng vừa làm mồi nhậu cho chồng, vừa kín đáo hóng chuyện. Bala bla, đại loại thế.

Vậy là bà thế chấp sổ nhà, gọi thợ xây cho cái nhà yến trên mảnh vườn ở vùng đất thép. Nhưng bà vẫn có chút lăn tăn, vì đất thép bom đạn nóng bỏng một thời chứ đâu phải đất lành để chim đậu. Nhưng rồi bà tự trấn an, rằng thầy pháp đã cúng kiếng rồi. Vả lại, mạng chồng bà nó thế, cứ phải làm ngược lại thiên hạ chút chút mới thành Bọ Lập.

Nhưng mấy tháng trời máy dụ yến choét choét suốt ngày mà yến đâu không thấy. Mấy ông hàng xóm điếc tai đã định lên tiếng, nhưng nghĩ lại làm hỏng việc thì e Bọ Lập sẽ quay về phố ở, hẳn là mất đi một niềm tự hào trời cho. Từ ngày có ổng về đây ở, xóm giềng vui hẳn vì có cái để khoe làng nghèo mà có nhà văn nổi tiếng, rồi toàn “kẻ trâm anh, người thế phiệt” vào ra, không như lâu nay heo hút quá.

Yến không về nhưng có chim rặt rặt về. Tất cả đúng 7 con. Bà Hồng héo ruột, nhưng lo chồng buồn nên cứ véo von “Yến về ông ơi, 7 con ni là 7 con khác 7 con hôm qua, hôm trước nha”…
Bọ Lập thì tưởng yến thật, lòng phơi phới. Sáng sớm, trà đậm xong, thả đúng 9 vòng thuốc lá Bọ Lập cầm gậy chấm chấm phẩy phẩy đi thăm nhà yến. Đi đúng 9 vòng mới chịu uỵch xuống tựa lưng vào bờ tường nhà Yến mà cảm cái sự sung sướng đang đến gần.

Chân Bọ Lập gãy năm nào, giờ xem như “nỏ có chi quan trọng”, vì cái cách đi vòng quanh nhà yến 9 vòng đã ngót cả cây số, lâu nay bà Hồng có mơ cũng không thấy.

Nhưng đúng Trời thương kẻ khó. Phước đức tụ khí. Rồi cũng có ngày yến bay về thật. Có bàn tay thầy pháp là khác hẳn. Hóa ra là dạo đầu mùi vôi vữa xi măng còn nồng quá nên yến sợ, chơ có chi mô.

Không chỉ vài con mà hàng đàn kéo về, sáng chiều bay kín một vùng trời. Lần này thì bà Hồng nở gan, nở ruột. Bọ Lập vẫn chống gậy chấm phẩy chấm phẩy quanh nhà yến mỗi sáng, nhưng nghiến răng chịu đựng cái chân đau chứ không chọc gậy cốp cốp vì sợ làm yến xao động. Xong việc thì chấm phẩy đúng 9 vòng quanh nhà yến, rồi rán vào nhà luôn chứ không dám ngồi dựa tường nhà yến, sợ mùi mồ hôi dầu nó lâu tan.

Xuân Nhâm Dần, bà Hồng hớn hở kêu người vào bán tổ yến. Trời ạ, phải vài chục ký chứ không đùa. Bọ Lập ới một tiếng, ui cha là bạn bè kéo về mừng. Bia rượu thâu đêm mà không thấy ai say.
Hóa ra, cứ nhậu xong là Bọ đãi mỗi người một chén súp via yến, là những chỗ đóng bánh yến thừa, yến vụn gom lại. Đến khi mọi người phát hiện ra chỉ là via yến chứ không phải thứ tổ yến siêu bổ thì việc đã rồi. Nhưng rồi mọi người cũng dần hiểu, vì via yến vẫn đại bổ, chỉ là cảm giác thôi.
Bà Hồng lập hẳn công ty, đóng gói yến sào, đăng ký nhãn hiệu. Không biết ông bà phò trợ thế nào mà đúng lúc bà Hồng chưa biết kiếm cái hình gì quảng cáo cho hot, cho dễ bán, thì Bọ Lập tủm tỉm: “Hay bà cứ ịn cái bản mặt tôi lên cũng được. Yến tôi nuôi là yến sạch, chất lượng cao thì việc gì tôi sợ”. Bà Hồng lại ngẫm, rồi ừ cho chồng vui, có chi mô nơ. Thế là “Yến sào Bọ Lập” ra đời.

Nhưng đúng là cả bà Hồng lẫn Bọ Lập đều không nghĩ đến việc cái tên Bọ Lập lâu nay đã rất hot (tất nhiên là hot của thời còng lưng phu chữ), lại trinh nguyên chưa quảng cáo cho nhãn hiệu hàng hóa nào, nên giờ tung ra đúng là hót hòn họt. Là thế chứ yến sào của người ta cũng sạch, cũng bổ, nhưng mua một hộp yến của Bọ Lập thì góp phần cho bọ khởi nghiệp thành công. Chưa kể, giàu lên thì Bọ Lập sẽ hăng máu mà viết tợn. Lúc đó văn chương nước nhà sẽ mau chóng có giải nobel chứ đùa à.

Nào ai còn dám bảo “lập thân tối hạ thị văn chương" nữa?

Share từ FB Lương Duy Cường

Trích ngang blog Quê Choa



Năm 2007 chỉ biết Internet dùng để email, cứ nghĩ blog là của giới trẻ, không để ý. Con gái học lớp 9 lập cho một blog ở Yahoo 360, bảo ba viết đi. Nể con thì viết bài “ Một ngày rảnh rỗi”, không ngờ comments đổ xuống ào ào tới mấy trăm cái. Thấy vui, viết liền mấy entry nữa, bất ngờ gặp nhiều người quen. Có những người mất liên lạc từ lâu bỗng nhiên xuất hiện, quá mừng.

Vì bị tai nạn chấn thương sọ từ 2001, liệt nửa người không đi đâu được. Vợ đi làm con đi học, một mình ngồi nhà rất buồn. Có blog giao lưu với mọi người, thật không gì vui hơn. Rồi đâm nghiện blog. Từ Blog yahoo 360 mỗi ngày có 10-12 ngàn views (lượt người truy cập), sau yahoo360 bỏ, lập blog Wordpress, lượng views ngày mỗi tăng 70-80 ngàn views/ ngày nhưng bị chặn ghê quá. Năm 2012 tới 20 triệu views thì bị chặn gần như hoàn toàn. Tới năm 2013 bỏ log Wordpress, lập blog blogspots, vẫn bị chặn khủng khiếp nhưng gắn được link vượt tường lửa nên lượng views vẫn tăng từ 150 ngàn- 200 ngàn/ ngày.

Tới 6/12/2014 lượng víews trên 110 triệu thì bị bắt, công an huỷ bỏ blog này. Ra tù không làm blog nữa vì xu hướng chuyển sang facebook nhanh nhậy hơn. Vả lại, nghĩ nên dừng lại là đẹp, cái gì cũng có ngưỡng của nó, quá đi không hay. Tổng kết nhờ blog viết được 7 cuốn sách và hơn 1 ngàn bài báo.


Ngũ khúc về một người thầy

Nguyễn Quang Lập


1. Một trong những đáng tiếc của tôi khi nhớ về tuổi nhỏ là tôi không được học văn với thầy Phan Xuân Hải, dù tôi gần gũi với thầy từ tấm bé.

Năm ba tuổi tôi đã gặp thầy. Ấy là tết Kỷ Hợi 1959 thầy vào thăm tết nhà tôi. Tôi nhớ là vì lần đầu tiên tôi có được năm hào mừng tuổi. Ba tôi là thầy giáo già, tết nào cũng đón nhiều cô thầy. Tôi nhớ thầy cô nào cũng mừng tuổi cho tôi năm xu hoặc một hào, riêng thầy Hải mừng tuổi cho tôi tờ năm hào mới cứng. Tôi không biết năm hào to nhỏ ra sao. Khi ba thất sắc kêu lên: “Ôi thầy cho cháu nhiều quá!”, tôi đoán chừng đồng năm hào chắc to lắm. Mà to thật, mãi đến chín năm sau tôi mới có lại đồng năm hào lần thứ hai, vẫn của thầy Hải.

Tôi nhớ thầy Hải vì một chuyện khác nữa, có lẽ đây là chuyện khiến tôi nhớ thầy lâu hơn. Ngày tết thấy khách đến nhà tôi thường đứng ôm cột nhà chờ khách mừng tuổi. Con nhà nghèo ba, bốn tuổi chưa đủ tuổi mặc quần, mỗi cái áo mới đeo lấy ba ngày tết không chịu thay. Các thầy đến nhà thường chào tôi bằng cái véo chim thân thiện. Có thầy còn búng một phát đau điếc tai. Tôi rất khó chịu, sợ và ghét nữa, nhưng vẫn để yên cho các thầy búng véo để kiếm lấy năm xu, một hào. Riêng thầy Hải không véo, không búng, thầy bế tôi lên, khen tôi đẹp trai và cho tôi năm hào. Sự kiện đầu đời to lớn thế làm sao tôi quên được.

2. Nhà tôi năm Kỷ Hợi 1959 ở Cầu Phôốc, năm Quý Mão 1963 dời về góc sân vận động sát với con hói chảy ra sông Gianh, phía sau trường cấp 2. Tôi sáu tuổi, về nhà mới chạy loăng quăng và phát hiện ra nhà thầy Hải chỉ cách nhà tôi chừng 100m. Thầy Hải dắt tôi vào giới thiệu với cô Kỳ, thằng Dương ba tuổi và con Thuỷ gần hai tuổi. Lần đầu tôi thấy con nít mà cũng mặc quần, đó là con thầỳ Hải. Thằng Dương còn đi đôi dày ủng nhựa màu trắng, nó trắng trẻo cao ráo lại đi đôi ủng trắng, giống ông tây con, sang quá là sang. Nhà thầy Hải cũng sang quá là sang. Ngôi nhà tranh vách đất ấy ngày nay chỉ là nhà nghèo, chỉ đỡ nhếch nhác hơn nhà tôi. Nhưng dưới cái nhìn thằng bé sáu tuổi con nhà nghèo thời ấy, nó thật giàu sang. Phòng khách đầy tranh và hoa, tranh của thầy Hải, hoa tươi hoa giấy của cô Kỳ. Nền nhà chỉ là nền đất nhưng sạch và láng bóng như nền xi măng, buồng ngủ buông một mành tre mỏng như giấy, hiên sau treo một lồng chim vẹt, bàn ăn đặt một bình hoa tươi… toàn những thứ nhà giàu mới có. Mạ tôi nói, nhà thầy Hải giàu vì thầy vẽ tranh truyền thần, mỗi bức bốn, năm đồng, khắp huyện người ta đua nhau đặt. Thầy còn vẽ tranh Bác Hồ nữa. Đắt lắm. Tranh Bác Hồ đặt trên lầu, ngay cửa ra vào Bách Hoá Tổng Hợp, huyện trả 30 đồng đâý. Tôi được đi chơi với con nhà giàu là thằng Dương và con Thuỷ. Con Bích lúc này đang ẵm ngửa. Cô Kỳ giao nhiệm vụ giữ em, dắt thằng Dương con Thuỷ đi chơi. Chúng tôi thường ra bờ hói sau nhà bắt rạm bè và còng gió. Chẳng bắt được, chỉ đuổi theo chúng cho vui thôi. Bờ hói cách nhà có một đoạn, khi đi không sao, quay về con Thuỷ thường nhõng nhẽo bắt tôi cõng. Dù không thích nhưng tôi vẫn vui vẻ cõng nó về để báo cáo kết quả “giữ em” với cô Kỳ, thế nào cũng được cô thưởng cho một món gì đó thật ngon, đồ ăn “nhà giàu” toàn thứ ngon.

Hôm ấy, cũng là hôm cuối cùng ngày bé tôi đến nhà thầy Hải, tôi cõng con Thuỷ chạy thẳng vào nhà. Chẳng may vấp ngã làm đổ giá vẽ tranh truyền thần, quờ tay làm đổ luôn lọ mực màu, rơi đúng tranh truyền thần thầy Hải đang vẽ dở. Bức truyền thần nhem nhuốc mực màu. Thầy Hải từ trong nhà chạy ra, đứng lặng ngắt mặt tái đi. Bốn mươi năm sau thầy mới kể, đó là tranh truyền thần một ông già vừa mất, con ông dục như cháy nhà, thầy đã hẹn một giờ chiều đến lấy. Thầy cúi mặt vào bức tranh, hình như cố nghĩ cách cứu vãn, ngước lên thấy bộ mặt dúm dó của tôi thầy mỉm cười, nói, không sao đâu, để thầy vẽ lại. Cô Kỳ làm như không có gì xảy ra, vẫn vui vẻ nói cười, cầm cái bánh trung thu đưa cho, tôi không nhận, chạy ù đi. Từ đó không dám bén mảng đến nhà thầy nữa.

Thỉnh thoảng thầy vẫn sang nhà tôi uống rượu với ba. Tôi núp né. Cô Kỳ vẫn sang nhà khi cho tô canh khi cho mớ rau, tôi vẫn núp né. Cô tìm, vui vẻ túm tay hỏi, sao không sang nhà cô chơi? Tôi chẳng biết nói sao. Làm hỏng một bức tranh “truyền như thần” với đứa trẻ ba tuổi tội ấy quá to.

3. Năm 1965 mùi chiến tranh đã dậy khắp Thị trấn, người ta đua nhau làm hầm hào. Thầy Hải làm một cái hầm chữ A thật to, cả nhà thầy có thể ngủ trong đó. Nhà tôi không có hầm, ba đi học chính trị ở Hà Nội, mạ đi theo cơ quan sơ tán ở Quảng Liên. Mấy chị em cơm cháo nuôi nhau, suốt ngày chỉ nghĩ mỗi chuyện ăn, hơi sức đâu nghĩ chuyện đào hầm.

Trận bom Mỹ đầu tiên vào khoảng cuối tháng sáu thì phải, 8 chiếc AD6 thi nhau thả bom xuống Long Thị và Long Hoà. Tôi đang chơi bờ hói. Bom nổ cả chùm xuống trường cấp 2, tôi tụt xuống hói, đứng ôm gốc bụi cây bên bờ. Giá tôi chạy sang hầm nhà thầy Hải sẽ chẳng việc gì nhưng tôi vẫn né nhà thầy. Nhiều người ào ào lội qua hói. Tôi thấy ông Năng đánh kẻng trường cấp 2, bọ thằng Toàn, đang đội rổ áo quần lội qua hói. Ông Năng rất cao, ra giữa hói sâu vẫn cố nhô được cái đầu đội rổ áo quân lên khỏi mặt nước. Ông không sợ chết, chỉ sợ ướt rổ áo quần, hi hi. Một quả bom nổ gần bờ thổi bay rổ áo quần. Ông Năng đứng giữa hói khóc hu hu. Tôi ôm gốc bụi cây đứng nhìn ông Năng khóc. Một khối đất đập xuống lưng tôi đẩy tôi chìm nghỉm xuống hói, một quả bom khác đẩy tôi lên, văng ra giữa hói. Tự nhiên tôi biết bơi ngửa và bơi sang được bờ bên kia. May thế không biết. Tôi chạy sang đồng khoai Xóm Cầu, núp trong bụi cây rưới nhìn máy bay thả bom Ba Đồn thêm một giờ nữa mới ngưng. Máy bay đi rồi dân Ba Đồn không dám về, sợ nó quành trở lại. Khoảng ba giờ chiều tôi đang moi trộm khoai sống, chợt một bàn tay vỗ nhẹ lưng, ngước lên, là thầy Hải. Thầy ôm chặt lấy tôi, nói, thầy tưởng bom vùi em rồi!

Mới biết khi tôi ở bờ hói, thầy Hải chạy sang nhà tôi, thầy biết ba mạ tôi đi vắng, anh Huy chị Nghĩa đi làm xa, để mấy đứa con nít ở nhà, hầm hố không có. Thầy thu gom anh Tường, anh Thắng đưa sang hầm nhà thầy. Thằng Vinh theo mạ lên Quảng Liên, còn tôi không thấy đâu. Mọi người tưởng tôi đã bị bom vùi.

Thầy Hải lầm lũi cõng tôi một mạch từ Xóm Cầu ra Lòi Dài là nơi dân Thị trấn vừa kéo nhau ra đấy sau trận bom khủng khiếp. Sau lưng to bè một vòng tay tôi không xuể, thốt nhiên tôi thấy thầy gần gũi vô cùng, gần gũi như một người cha.

4. Chiến tranh đã đẩy hai nhà ra rất xa. Trong suốt cuộc chiến tranh chưa một lần tôi biết đến nhà thầy. Dầu vậy thầy vẫn rất gần gũi. Năm học lớp ba, năm 1967, bài tập làm văn học kì một tôi được 9,5 điểm. Đó là điểm văn cao nhất của tôi trong suốt thời học phổ thông. “Hãy tả con gà chống Mỹ của em”, đề do cụm (3 xã) ra. Cô Ngoan nói điểm văn của tôi cao nhất cụm. Tôi sướng âm ỉ suốt tuần.

Một chiều tôi bắt rạm về. Thấy tôi ở ngõ mạ đã kêu to, thầy Hải vừa lên đây tìm mi! Tôi giật thót, sợ có chuyện gì. Mạ vui vẻ kể. Thầy Hải lên phòng giáo dục họp giáo viên dạy giỏi cấp 2, nghe mấy thầy cô dạy giỏi cấp một khen “Thằng cu con thầy Đạng có bài văn hay lắm”, thầy quyết tìm cho ra bài văn, đọc xong thầy lên đây thưởng cho mi năm hào. Thầy chờ mi không được, về rồi. Tôi cầm năm hào mới cứng vân vê, hỏi, thầy có nói chi không mạ? Mạ cười hả hê, nói, thầy nói với mạ, “Em mà chấm thì em cho bài văn mười chín điểm rưỡi.”, he he thầy nói quá, văn chi lại có thứ văn mười chín điểm rưỡi. Tôi thêm một tuần âm ỉ sướng.

Cuối năm lớp 3, thi học kỳ hai môn văn đề thi “Trường em”, tôi quyết viết thật hay cho được 10 điểm, hy vọng kiếm được một đồng từ thầy Hải. Kết quả chỉ có 7 điểm bọ. Thầy cô trong trường chẳng ai khen cũng chẳng ai chê. Tôi hơi buồn một chút nhưng cho qua rất nhanh. Sang năm lớp 4 xuống Pháp Kệ thi học sinh giỏi, đang đứng lớ ngớ cổng trường bỗng thầy Hải đứng ngay trước mặt. Thầy coi thi bên khu học sinh giỏi cấp 2, biết tôi thi ở đây thầy chạỵ sang tìm. Hỏi chuyện ba mạ đôi câu thầy xoay sang hỏi, em biết vì sao bài văn học kỳ hai được có bảy điểm không? Tôi trợn mắt há mồm, té ra thầy lại tìm đọc bài văn của tôi. Thầy nói, em viết được, câu kéo đâu ra đấy, tu từ giỏi, có điều không thật bằng bài trước. Văn muốn hay thì phải thật. Tôi cúi đầu xấu hổ, quả thật bài đó tôi “ khua môi múa mép” hơi bị nhiều. Thầy ôm đầu tôi, nói, đừng buồn, cố lên, khó mấy cũng đừng bỏ cuộc.” Rồi thầy vội vã quay về khu học sinh giỏi cấp 2.

Thầy không cho tôi hào nào, chỉ cho hai lời khuyên ấy. Tôi mang lời khuyên thầy Hải vào cuộc thi, đề thi “Em hay tả cô dân quân quê em”, đề thì quá khó vì tôi chẳng biết dân quân cũng chẳng thấy cô dân quân nào, chỉ nghe nói. Nhớ lấy thầy dặn “Khó mấy cũng đừng bỏ cuộc.” tôi đã cố làm xong. Bài chỉ đạt 6,5 điểm nhưng chiếm giải nhì huyện. Nếu không có lời khuyên “Văn muốn hay thì phải thật”, tôi lại “khua môi múa mép” chắc giải rút cũng không có.

5. Bốn mươi năm sau tôi trở thành bạn văn, đồng nghiệp của thâỳ. Thầy có chục vở kịch, tôi có chục cuốn sách. Khi về quê trưa nào tôi cũng đến nhà thầy ngủ trưa và tán gẫu vì nhà thầy gần con hói rất mát. Thầy chẳng nói gì về chuyện văn chương, viết cái gì viết thế nào. Tôi cũng thế. Thầy trò chỉ nhậu và nói chuyện đời, xong rồi tôi viết văn thầy viết kịch, gặp nhau cũng chẳng khoe nhau có cái này được cái kia.

Cho đến một ngày tôi bị tai nạn, chấn thương sọ não, liệt nửa người, vào năm 2001. Thầy ra Hà Nội thăm tôi, ngồi rất lâu, chỉ nói một câu: Mình đọc sách Lập rồi, toàn bộ văn Lập có thể tóm một chữ, là chữ THẬT. Tôi kể lại lời khuyên của thầy năm 1968 ở Pháp Kệ, “Văn muốn hay thì phải thật”. Thầy trố mắt lên, hỏi, mình có khuyên Lập thế à? Rồi thầy ngồi lặng đi, cảm động. Trước khi ra về thầy nắm tay tôi thật chặt, nói, cố lên nhé, khó mấy cũng đừng bỏ cuộc. Tôi ứa nước mắt. Thì ra cả đời văn tôi chỉ làm theo hai lời khuyên của thầy Hải.

Củ Chi ngày 13/11/2021
NQL