Kính tặng ngày nay
Rốt cuộc ông đã
bật nẩy được hai hòn đá lớn, một vuông một tròn, nằm kẹp chặt cái hũ gạo nhỏ như
quả bầu khô đã hơn hai năm nay.
Khi hòn đá thứ hai vừa chớm nảy lên, cái đòn
bẩy kêu răng rắc, ông cảm thấy xương vai ông rạn vỡ, nó cũng kêu răng rắc. Ông
sùi bọt mép, nghiến răng rướn lên, rướn lên... "Một, hờ – hai!".
Bây giờ đến lượt tám vạn con đom đóm, có khi hơn, từ hai hố mắt u tối của ông
nhất loạt bay vụt, ra. “Một, hờ – hai!", ông nghiến răng rướn lên, rướn
lên...
Hoặc máu hoặc nước
mắt hoặc xác tám vạn con đom đóm chảy thành dòng trên mặt ông. "Thì
đây này!...", ông gầm lên. Thốt nhiên ông thấy ớn lạnh, rồi nóng rực,
rồi chẳng thấy đau đớn nặng nhọc gì nữa hết. "Rầm!" A ha, hòn đá thua
ông, nó nặng gấp chín chục lần thân xác ông mà thua ông.
Ông không nhớ vào
những tích tắc hòn đá chịu thua ông trong cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa ông
và nó ròng rã một năm trời kể từ ngày ông phát hiện ra cái hũ gạo dưới xác nó,
ông đã bay lên theo đòn bẩy hay nằm vật xuống bên hũ gạo. Mãi đến sáng hôm sau
ông mới tỉnh dậy và kinh ngạc thấy ba mươi chín lon rưỡi gạo đang tràn trề
trên bộ ngực dính đầy máu của mình.
Ông vốc một nắm gạo lên ngắm, ông ngắm say sưa
tuy chẳng thấy gì cả. Ông bị mù. Hai tròng mắt đã bật khỏi hố mắt của ông năm
1968 do một quả rốc-két "không lực Hoa Kỳ" phóng thẳng xuống suýt nữa
đã làm ông tan xác. Năm đó ông bốn mươi tuổi.
Người làng Mùi nhất loạt gọi ông bằng
“anh" vì ông là người độc nhất trong làng đến tuổi này vẫn không vợ. Đúng
hơn. ông có số “sát vợ”. Thật kinh khủng, ba người đàn bà đều bỏ mạng sau khi
lấy ông được ít lâu.
Người thứ nhất ăn ở với ông được mươi ngày,
vào rừng lấy củi bị rắn độc cắn chết. Người thứ hai được ba tháng sẩy thai băng
huyết, lặng lẽ nhắm mắt trong khi ông chạy băng qua mười chín quả đồi về một
xóm giáp đồng bằng mời thầy thuốc. Người thứ ba run rẩy sà vào vòng tay của
ông, sống ru rú bốn tháng ròng rã trong nhà, cuối cùng vẫn không tránh được tai
họa: chị đã chết ngồi bên bếp lửa, không rõ vì bệnh gì.
Từ đó, không có
người đàn bà nào dám bén mảng đến với ông nữa, dù ông nổi tiếng là người hiền
lành và khỏe mạnh. Từ ngày ông bị “Mỹ đánh mù mắt”, ngày nào cũng giống ngày
nào, ông ngồi ở bậc cửa ngóng ra đường để tìm kiếm một cái gì đó, một người nào
đó, một con gì đó...
Đấy là người làng
Mùi đoán vậy. Thực ra ông chẳng tìm kiếm gì hết, ông ngồi vậy để hoài nhớ về
cái thời mắt ông còn sáng, một cuộc tổng kiểm kê ký ức kéo dài hàng năm trời.
Ông nhớ cái thung
lũng nằm kẹp giữa hai đỉnh núi lớn nơi làng Mùi đang sống, là do một người tên
Mùi tìm ra vào năm 1944 - năm đói rách nhất của đất nước ta. Đầu tiên là một
người, sau hai tháng là chín người, sau bảy tháng là hai mươi chín người. Người
thứ hai mươi chín là ông.
Năm đó ông mười hai tuổi. Hai mươi chín người
tha phương cầu thực, bỗng vớ được một miếng đất tốt chưa ai biết, chưa có
trong "lục sao địa bạ" của chính quyền. Họ mừng rơn, rủ nhau lập làng
sinh sống. Rồi lấy nhau. Rồi sinh con đẻ cái. Lớp con cái lớn lên lại yêu nhau,
lại sinh con đẻ cái. Cứ thế, cứ thế... cho đến bây giờ.
Chỉ có ông là bị đẩy ra ngoài cái vòng quay
sinh tồn ấy. Khi tất thảy dân làng Mùi đang ra sức chống cự với cuộc chiến
tranh từ trên trời rơi xuống để bảo vệ giống nòi thì ông ngồi ở bậc cửa lặng lẽ
ngóng ra đường, âm thầm tìm kiếm từng mảnh vụn ký ức bốn mươi năm từ khi ông có
mặt trên đời.
Chiến tranh đã rơi xuống hết thảy các cánh
rừng. Hết cánh rừng này bốc cháy, lại cánh rừng khác... khi làng Mùi bị
bốc hết lớp "ngụy trang" cuối cùng, trơ ra như một miếng thịt mỡ
giữa cái mâm nhẵn thín thức ăn thì hy vọng "được sống đến ngày mai” coi
như chấm dứt.
Thời gian sống của
họ đầu tiên được tính bằng tháng này tháng kia... sau, tuần này tuần kia...
sau, ngay này ngày kia... cuối cùng là sáng, trưa, chiều, tối.
Phải đến lúc này mới có người đàn bà thứ tư
tìm đến ông, tìm đến ông chứ không phải ngược lại. Chị là người đàn bà táo tợn
và ngoa ngoắt có một không hai ở làng Mùi. Khi nổi xung, chị sẵn sàng dí “vật
hy sinh” của mình vào mặt bất cứ ai. Vì thế chị chưa có chồng, và chắc sẽ không
bao giờ có chồng, nếu không đùng đùng đến gõ cửa nhà ông tối hôm ấy.
Tối hôm ấy là tối thứ chín mươi sáu làng Mùi
có người chết. Mỗi trận bom quyết liệt từ bốn giờ chiều đến bảy giờ tối đã đưa
con số tử vong dân làng Mùi lên tới một trăm mười tám người. Như vậy,
chỉ: còn chín mươi ba người nữa.
Không có cách gì thoát được cái chết - đó là
nỗi bất hạnh khủng khiếp nhất mà tất cả phải nhận lãnh. Đã nhiều lần, nhiều
người tìm cách thoát ra khỏi "tọa độ máu” này bằng cách chạy tới một vùng
khác nhưng tất thảy đều không thành: hoặc gục chết trên đường bỏ chạy, hoặc
không sao vượt qua vành đai đạn lửa bao bọc quanh làng, buộc phải quay lui.
Cuối cùng người ta
cay đắng nhận ra: làng Mùi là nơi an toàn nhất giữa một vùng đất trắng, tại đây
con người có hy vọng kéo dài thời gian sống của mình được lâu nhất so với những
nơi khác. Thế là không ai bỏ chạy nữa. Họ ở lại, và mỗi người đều thấp thỏm cầu
mong mình được đứng cuối danh sách chín mươi ba người do thần chết điểm danh.
Họ coi đó là hạnh phúc cuối cùng của đời họ.
Chỉ có ông là không thèm đếm xỉa đến cái danh
sách khủng khiếp kia. Ông vẫn ngồi ở bậc cửa ngóng ra đường, âm thầm hoài nhớ
những ký ức xa vời về cái thời trông - thấy - được của ông. Đã từ lâu ông mắc
bệnh bất mãn trầm trọng đối với cuộc sống.
"Bác Thiệt!" - Chị kêu khe khẽ và
thốt nhiên hai tai chị nóng bừng. "Cái gì?" - Ông hỏi, mắt vẫn ngóng
ra ngoài đường. Chị run lên, mặt mày đỏ chín và vùng té chạy. Chị bứt ra khỏi
nhà ông với tâm trạng không thể phân tích rành mạch được. Vừa xấu hổ cho mình
là kẻ vô duyên, không dưng lại đến gạ lấy thằng mù; vừa ân hận nghĩ mình là
con hèn, hắn ta đã làm gì mình đâu mà bỏ chạy? Vừa cay đắng cho thân phận của
mình, chưa bao giờ nghe bọn đực tán tỉnh lấy một câu để đến giờ phải đến biếu
không cho thằng sát vợ.
Chị chửi rủa mình. Lần
đầu tiên chị chửi chị. Xưa nay chị chỉ chửi người ta, chửi hết lượt, nhưng
chẳng ai sợ. Người ta cũng chẳng thù ghét gì. Hình như mọi người đều hiểu đó
là sự trấn áp nỗi sợ hãi của chính chị khi đã gần bốn mươi tuổi vẫn "thân
cô thế cô". Chị chạy rối mù trong đêm tối cho tới khi tiếng khóc lóc thảm
thiết của mười sáu gia đình có người thân chết vì trận bom ban chiều bỗng vang
lên rền rĩ một góc làng khiến chị đứng sững lại.
Cái chết! Chị rùng mình, đứng ngơ ngẩn giữa
đường làng. “Đồ ngu!" - Chị kêu lên. "Đồ ngu!" - Chị lại
kêu lên và quay gót. Chị chạy vù về nhà ông. Chị đứng bên bậc cửa nói liên miên
như mê sảng.
Chị chẳng hiểu chị nói gì nhưng ông dần dần
hiểu ra. Ông kinh ngạc “nhìn” chị, "nhìn” mãi cho đến lúc chị đột nhiên im
bặt, trân trố nhìn ông thì ông khẽ thở dài, lẳng lặng tiến về phía chị.
Họ đứng áp ngực
vào nhau trong đêm tối. Bốn xung quanh là những con đom đóm lập lòe, xa hơn là
những đám lửa cháy rừng kéo dài ngoằn ngoèo như những con rồng lửa. Họ tỳ vào
nhau giống hai thân cây còi cọc bị bật rễ qua một trận bão lớn. Không ai nói
với ai, không ai nhìn ai… cuối cùng là những giọt nước mắt của ông, một kẻ sát
vợ, rơi xuống cổ chị từng giọt một cho tới khuya...
Sau đó những cuộc
giao hoan ngút trời của họ làm rung chuyển làng Mùi mấy tháng liền, bất chấp
những trận bom ném xuống làng ngày một dữ dội.
*
* *
Lẹ tên của chị -
người đàn bà thứ tư cuối cùng cũng bỏ ông mà đi. Bỏ đi chứ không chết
như ba người đàn bà trước, sau khi sống với ông trọn vẹn được hai năm. Nhưng
ông không biết điều này cho đến bây giờ ông vẫn tin chị đã chết.
Đó là buổi chiều
vào cuối năm l972 ông xách vài chục cái trúm (một dụng cụ bẫy lươn) lần mò
xuống một con suối nhỏ nằm xéo về phía tây làng Mùi.
Từ ngày ông bị mù, đây là công việc duy nhất
ông thực hiện được có hiệu quả kinh tế cao. Mỗi đêm ông bắt được vài chục con lươn,
ăn uống thỏa thuê còn bán được dăm đồng. Khoảng ba giờ chiều ông xách
trúm đi, sáu giờ chiều ông mò tới bờ suối, đặt xong trúm khoảng chín giờ đêm,
mò về tới nhà vừa đúng nửa đêm.
"Lươn là lươn
to này..., (i a)... lươn là lươn dài này... (i a)... ta bỏ vào trúm...
(i a)… xách về cho vợ ta nhai... A ha ha ha!..."
Ông hát say sưa
bài hát do ông bịa ra cho chính nghề của ông. Không có nhạc sĩ nào dư sức lại
sáng tác cho cái nghề bẫy lươn của ông. Vậy thì ông tự sáng lác lấy, a ha, hay
ra phết, càng hát càng thấy hay.
Buổi chiều hôm ấy ông cũng hát như vậy trong
khi lần dò tới bờ suối. Vừa đặt xong được cái trúm đầu tiên thì làng Mùi ầm ầm
liếng bom nổ. Ông dỏng tai nghe, nghĩ thầm: "Lần này không biết đến lượt
ai?"'ông khẽ thở dài, đưa tay giụi mắt. Mỗi lần đau đớn một điều gì ông
thường làm vậy.
Sau cái giụi mắt, nước mắt ông tứa ra lấp đầy
hai hố mắt, ông đưa lưỡi liếm cẩn thận từng giọt nước mắt chảy xuống, đau đớn
ngóng về làng Mùi: "Lần này không biết đến lượt ai?" Làng Mùi chỉ
còn bảy mươi mốt người nữa, sau trận bom này sẽ còn lại bao nhiêu?
Tiếng bom kéo rê
quanh làng, đột ngột im lặng, rồi bỗng vang lên chấn động cả một vùng. Hơn một
giờ sau, tiếng bom tắt hẳn, chỉ còn lửa cháy sáng rực. Rất nhiều nhà bị cháy,
kể cả nhà ông, từng quầng lửa tung lên trời, hết lớp này đến lớp khác.
Không nom thấy ngọn lửa đang thiêu cháy làng
Mùi, ông cho là yên bình trở lại. “Không biết bây giờ đến lượt ai?" - ông
lắc đầu. "Thôi thì đến lượt ai cũng vậy... biết làm sao?" ông tiếp
tục đặt trúm dọc con suối. Ông hát, hát say sưa, thỉnh thoảng ngửa cổ lên cười
một chập rồi lại hát. "Rốt cuộc cũng đến lượt ta thôi. Rốt cuộc “sẽ gặp
nhau dưới âm phủ tất!" - ông ngửa cổ cười ha ha, giụi mắt một cái lại cười
ha ha ha... .
"Lươn là lươn
to này... (i a)... lươn là lươn dài này, (i a)... Ta bỏ vào trúm... (i a)...
xách về cho vợ ta nhai... A ha ha ha!...
Ông quay về làng,
vừa đi vừa hát. Ông thấy khét khét quá, càng lùi sâu vào làng càng thấy khét.
Đầu tiên là mùi khét bom, sau là mùi khét nhà cháy, sau nữa là mùi khét của xác
chết... Hình như vậy.
- Lẹ ơi ?
Ông kêu to, không
một tiếng đáp. Ông lao nhanh vào nhà và ngã sấp bởi một thanh gỗ cháy dở ngáng
ngang lối đi, hai tay giúi vào một đống tro nóng rực.
- Lẹ ơi!
Ông chạy đi chạy
lại, chạy đi chạy lại, run rẩy quờ quạng khắp nơi. Nhà ông bị cháy và Lẹ không
lên tiếng. “Thế là đến lượt cô ấy"...
- Chết... tất cả...
rồi?.
Ông gục mặt xuống
vệ cỏ đường làng, ôm mặt khóc rưng rức. Một tiếng cú đột ngột vang lên. Lại
một tiếng cú. Một tiếng cú nữa. Ông gào lên thảm thiết, hai tay chới với giữa
trời. Tiếng cú vẫn vang lên như tiếng chuông cầu nguyện của rừng...
…Lẹ không chết.
Bảy mươi mốt người còn lại của làng Mùi không ai chết. Họ đã được bộ đội
cứu thoát và đưa đi trên hai chiếc xe giải phóng.
Khi đó ông đang đứng bên bờ suối cùng với
những cái trúm bẫy lươn. Bộ đội từ đường 15 đã phát hiện có một xóm nhỏ nằm
giữa thung lũng hẹp đang bị bom vùi. Họ lao vào lôi từng người một ra khỏi đám
cháy. Lẹ được một người lính bế xốc lên vai, chạy. Chị bị thương ở ngực và đùi,
máu phun ngược từng tia lớn.
Bảy mươi mốt người được dồn lên thùng xe.
"Còn ai nữa không?" - Một người hỏi. "Hết." - Một người trả
lời. "Chạy ! " - Một người ra lệnh. Hai chiếc xe Giải phóng lao ầm ầm
xuống dốc. Làng Mùi trước mặt mọi người là những ngọn lửa cao vút lên trời. Lẹ
tỉnh dậy sau ba giờ xe chạy, chị lờ mờ nhớ ra... "Chồng tôi đâu?" –
Chị kêu to – “Chồng tôi hả? Chồng… tôi…” Không ai trả lời, hoặc có người trả
lời mà chị không nghe thấy.
Chị lịm đi, chỉ còn nhớ mình khát quá, khát
không thể nào chịu được. Chị chợt thấy có một con suối trong veo, tràn qua ngực
mình. Con suối nhiều nước quá, nước ngập tràn, ào ào chảy vào những cái trúm
đầy lươn cứ dập dềnh, dập dềnh…
Vào lúc đó, chồng
chị đang lê lết khắp làng, ôm mặt khóc rưng rức.
*
* *
Ba mươi chín lon rưỡi gạo, mỗi ngày
ăn nửa lon, vậy là ông sẽ sống ít nhất bảy mươi lăm ngày nữa. Ông mỉm cười.
Bây giờ trăng đang lên, ông nhận thấy bằng cảm giác rân rân, máy lạnh ở hai
thái dương. Những lúc lòng ông yên tĩnh nhất, hai thái dương còn cho ông biết
mặt trăng đang nằm ở hướng nào, méo hay tròn.
Vậy
là ông cảm được ngày và đêm, ngày và đêm, lại ngày và đêm... ông sống đơn độc
giữa thung lũng này. Cứ qua mười ngày, ông lại tìm một cái cọc cắm sâu giữa
sân nhà. Đã bảy mươi chín cái cọc được cắm xuống, vậy mà không có ai tìm đến
ông, dắt ông ra khỏi vùng rừng hoang vắng này.
Tám mươi chín cái cọc, nghĩa là thiếu vài cái
cọc nữa sẽ chẵn hai năm. Ôi chao, hai năm! Ông đã trụ được hai năm! Trên thế
gian này hỏi có ai như ông? Không có! Không thằng đếch nào được như ông hết!
Ông ngửa mặt cười ha hả...
Ông
nhớ nhất cái cọc đầu tiên được cắm xuống. Đó là mười ngày lạ lùng của đời ông.
Ngày thứ nhất, ông ngồi ôm mặt khóc cả ngày, lúc lúc ông bật dậy chạy như
điên, hét vang rừng.
Ngày thứ hai, ông im lặng
chờ chết. Sống không có người hỏi sống có tích sự gì nữa? Ông ngồi lên một tảng
đá cao, chờ máy bay tới. Coi như xong một đời người, coi như xóa tên năm dòng
họ giữa thung lũng này.
Ông
là người chứng kiến tất cả cái chết người làng Mùi, giờ đến lượt ông. "Bố
mày đến lượt đây này, bớ Đế quốc Mỹ!" - Ông gầm lên. Nhưng máy bay không
tới, hôm đó là ngày yên tĩnh - Không có tiếng máy bay, cả tiếng ôtô bộ đội chạy
trên đường 15 cũng không có.
"Mẹ khỉ? Cái gì muốn đều đếch được."
- ông cười gằn. Ngày thứ ba, ông quyết định sống. Chưa nghĩ ra lý do sống để
làm gì nhưng ông quả quyết chờ chết là kiểu chờ đợi ngu nhất.
"Thôi bỏ mẹ tôi rồi suýt nữa bỏ
mạng!"- Ông hét toáng lên và tung tăng đi mò gạo nấu cơm. Nhà ông
bị cháy, hãy còn hũ gạo mời hai lon chôn dưới gốc đào. Ông moi lên, nấu đầy
một xoong to, và ăn ông ăn cả ngày, vừa nhẩn nha nhai cơm với muối rang vừa
nghĩ ngợi lung tung, chưa ra đầu cua tai nheo gì hết. Cuối cùng ông quyết
định: sống, nghiến răng mà sống, chờ người đến đưa về đồng bằng. Đường 15
không xa, nhất định bộ đội sẽ phát hiện ra ông.
Ngày
thứ tư, ông lò dò tìm đến từng nhà trong làng, gom từng lon gạo rơi vãi. Ông
nhận định: sẽ còn lâu bộ đội mới tìm ra ông, vậy phải "dự trữ chiến lược".
Bốn ngày sau đó, ông liên tục đi tìm gạo, muối và tất cả những gì có thể nhai
được về chất đống trong túp lều của ông vừa mới dựng tạm, để “bò vào bò ra”
bằng các mảnh tranh, tre sót lại sau đám cháy.
Ngày thứ chín, ông chợt nhận ra hình như máy
bay không còn oanh tạc nữa, hình như đã bốn ngày nay không có tiếng máy bay,
có lẽ vì mải tìm nguồn “dự trữ chiến lược" mà ông không để ý. "Ờ
nhỉ, ngay cả tiếng ôtô trên đường 15 cũng thưa thớt hẳn". - Ông nghĩ
thầm, hồi hộp chờ đợi...
Ngày
thứ mười... chao ôi, cái ngày thật đáng nhớ. Buổi sáng, ông trở dậy, đi ra ngõ
dỏng tai lên nghe. Ông đứng im phắc hàng giờ liền, chờ đợi... không có tiếng
máy bay, vẫn không có tiếng máy bay! "Hay là hết chiến tranh?" - ông
run lên. "Có thể lắm chứ!" trống ngực ông đập thình thịch, mồ hôi
chảy đầm đề ngực áo. Ông sợ cái điều vừa phát hịên bỗng chốc biến mất.
Kiên
nhẫn nắng nghe thêm vài giờ nữa, khi đã hết mức chịu đựng, ông hét lên: “Hoà
bình! Hoà bình! Ối cha mẹ ơi!...” Ông vừa chạy vừa hét: “Hoà bình rồi, bà con
ơi, Lẹ ơi…. Sao không ai gắng sống thêm mười ngày nữa…”- ông ngồi khóc tu tu.
Đến
sẩm tối, ông bàng hoàng nhận ra chính mình đang gặp phải bất hạnh mới. Ờ nhỉ,
nếu hoà bình thì…gay! Gay to rồi! Đường 15 sẽ không có ai lên và chẳng ai đến
thung lũng này làm gì nữa, tất cả sẽ nhào về đồng bằng để kiếm sống. Vậy là chỉ
mình ông thôi, mình ông sống vật vời ở đây cho tới ngày hết số lương thực “dự
trữ chiến lựơc”.
-
Bỏ mẹ tôi rồi” - Ông kêu lên đau đớn…
Quả
đúng như vậy. Đã hai năm ròi vẫn không có ai lên. Số lương thực “dự trữ chiến
lược” đã cạn. Thần chết đang đuổi bắt ông từng ngày một. Làng Mùi đã biến dạng
không còn làng nữa, chỉ là vùng đất bằng đầy cỏ tranh và những cây dẻ non mọc
rậm rịt.
Những con thú nhỏ đã tìm về sinh sống. Đôi khi
có những bày lợ rừng ké nhau qua mặt ông, đôi khi có vài con rắn trườn qua bụng
ông vào những giờ ông ngủ…
Đã
nghe tiếng mang tác mỗi ngày mỗi gần. Và sau đó là tiếng hổ, thỉnh thoảng có
tiếng hổ gầm lên ghê rợn ở phía sau con suối năm xéo phía tây làng Mùi.
Nhưng mọi sự hăm doạ của súc vật không làm ông
sợ hãi bằng nõi cô đơn khủng khiếp mà ông đang chịu đựng. Ông nhớ đời sống làng
Mùi, nhớ phát điên lên được. Nhớ ông Sạc sứt môi hay ca vọng cổ, chị Tím tâm
thần hay đứng nói một mình, thằng Hi hay ăn trộm gà hàng xóm, mụ Xanh chúa chửa
hoang… và Lẹ, người đàn bà táo tợn, ngoa ngoắt có một không hai ở làng Mùi. Khi
nổi xung, Lẹ sẵn sàng dí “vật hi sinh” của mình vào mặt bất cứ ai. Thế mà ông
đã yêu chị, yêu đến phát cuồng mỗi bận bế xốc tấm thân nóng rực ấy nên mà hôn
mà cắn mà run bắn,…
Tất cả đã chết, làng mùi đã chết, chỉ còn ông.
Bảy mươi chín cái cọc đã cắm lên ghi dấu sức chịu đựng chịu đựng về nỗi cô đơn
của ông.
Một
đêm, ông nằm mơ thấy có hàng vạn người chạy ào ào từ đồng bằng lên đây tìm
mình. Họ vừa chạy vừa đồng thanh hô lớn: “Cứu lấy ông Thiệt! Cứu lấy ông Thiệt!
Cứu lấy ông Thiệt! Cứu! Cứu! Cứu! …..” Trong đó
có Lẹ, nước mắt chảy đầm đìa, chị chạy như điên về phía ông.
Ông choàng tỉnh, ngay lập tức tìm cái cọc dài
chạy đến hai hòn đá lớn, một vuông một tròn nằm kẹp chặt cái hũ gạo như quả bầu
khô đã hơn hai năm nay, nhiều lần ông cố sức bật nảy hai hòn đá ấy nên nhưng
không được. Lần này thì phải được, nhất định được, bởi vì ông nhớ người quá.
Phải về đồng bằng… về với mọi người… Một, hờ… hai” – ông rướn lên… A, ha ha,
hòn đá đã thua ông, nó nặng gấp chín chục lần thân xác ông mà thua ông….
Đổ ba mươi chín lon rưỡigạo đã rang chín vào
ống quần dài, quàng lên cổ, một tay cầm con dao phay đã quá cùn, một tay cầm
gậy chống. Ông hăm hở lên đường. “Về xuôi, phải về xuôi, về với mọi người!” -
Ông nhắc đi nhắc lại hàng vạn lần trong quá trình hành tiến về với loài người,
Ông là người thì phải sống với người, hoạ là thằng ngu mới cam chịu sống với
súc vật.
Đồng
bằng ở hướng mặt trời mọc. ở hướng mặt trời mọc mọi người đang sống. Thế thì
ông phải đi. Chết cũng phải đi. Có cái gì nhai được nữa đâu mà không chết? Vậy thì
liều mạng rời bỏ “xã hội xúc vật” là đúng. Nếu chẳng may không về được với loài
người thì ông buộc chấp nhận cái chết, tốt thôi.
Nhờ hai thái dương như cái địa bàn, ông định
hướng mặt trời mọc. Không cần đường sá,
ông vừa đi vừa bò vừa chui… cứ hướng mặt trời mọc mà ông tiến, đếch sợ!
Ngày đi, đêm nghỉ vì ban đêm hai thái dương
không hoạt động được, ông sợ mất phương hướng. Vài ngày đầu ông hơi mệt, mệt và
nhừ chân. Sau quen dần, ông thấy cái việc hành quân này còn sướng hơn gấp mấy
ngồi co ro ở thung lung lung kia mà nghe chim kêu vượn hót.
“Về
xuôi, về với mọi người”. Ông lầm bầm đọc thần chú, cắm cổ bước. Ông tưởng tượng
mọi người đổ xô ra đón ông như thế nào. Họ từ bốn phương tám hướng chạy đến, kẻ
ôm xốc ông, kẻ reo hò, kẻ đứng ôm mặt khóc.
Chứ
sao, có ai như ông không nào? Trên thế gian không có thằng đếch nào cả gan sống
với thú vật hai năm trời như ông! “Tội nghiệp” – Mọi người nói. “Một người dũng
cảm! – Mọi người lại nói “Một người anh hùng!” – Mọi người đồng thanh hô lớn và
deo hò. Và tung hê ông lên trời.
Ông
ngửa cổ cười lớn mỗi khi nghĩ đến cái giây phút thần tiên đó. Ông hăng lên,
bước bước bước, rồi bò, rồi chui… liên miền ngày này qua ngày khác…
Hơn
hai tháng sau, ông gặp được đồng bằng, thật không ngờ, vừa chạm phải cửa rừng
ông đã chạy vù vù. “Đồng bằng! - Ông hét lên – “Trời phù hộ tôi!” Vứt hết dao,
gậy gạo, ông chạy. Ông bước hụt xuống một thửa ruộng sau. Lúa! Lúa! “Mọi người!
- Ông kêu váng và ráng sức chạy băng qua hết thửa ruộng này đến thửa ruộng
khác.
Khi
đã kiệt sức. Ông đứng lại thở, vừa thở ra cười : "Gắng lên? Chỉ vài tích
tắc nữa là gặp mọi người thôi mà, gắng lên !..." - Ông thở hồng
hộc, cắn răng bước từng bước nặng nhọc. Rồi ông bò, bò như một con bò bị
thương lê lết qua từng thửa ruộng. Cho tới khi ngất xỉu…
Bây giờ một mình
ông, lại vẫn một mình ông, ngồi tựa vào một vách lều hát nghêu ngao giữa chợ
thị trấn Đ. đã tàn khách ông đã về với mọi người và những đám đông ông tìm đến
là những cái chợ. Phút gặp gỡ đầu tiên của ông với mọi người cũng là một'cái
chợ nằm trên cồn đất nhỏ giữa cánh đồng.
Người ta lôi cái
xác mềm nhũn, bê bết bùn đất của ông lên giữa chợ. Bao nhiêu người lớp trong
vòng ngoài vây quanh ông. Ông tỉnh dậy vừa lúc chợ sắp tàn: ông nghe tiếng
người, bao nhiêu là tiếng người lao xao, lao xao...
- Mọi người ? -
Ông vùng dậy kêu vang.
Rồi ông quờ tay:
chân người. Ối cha mẹ ơi, chân người! Ông òa khóc. Tất cả những ai sót lại
trong cái chợ sắp tàn đều chạy đến chỗ ông.
- Bà con ơi, tôi
là Thiệt đây!... Tôi ở rừng, hu hu...
Người ta chen nhau
vào nom cho được cái người tên là Thiệt đang bù lu bù loa về một chuyện gì đó
mà chẳng ai hiểu gì cả. Còn ông thì hết ôm chân người này lại quay sang người
khác, khóc nức nở. Một vài người đàn bà hét toáng lên. Chân giãy mạnh khi ông
ôm chầm lấy... Họ cười, ôm bụng mà cười. Ông khóc dữ hơn. Vật vã giữa những bàn
chân người. Cuối cùng mọi người cũng đã hiểu ra.
- Bây giờ bác tính
về đâu? - Một người hỏi. .
- Tôi về với mọi
người. - Ông mếu máo.
- Bác tìm ai? Tức
là người đó ở đâu? tên gì?
- Một người khác
hỏi.
- Tôi về với mọi
người: - Ông vẫn mếu máo.
Nhiều người bịt
miệng cười, bỏ đi. Một người đàn ông bực dọc khi nghe ông cứ trả lời như một
thằng điên, liền quát:
- Về với ai thì cứ
nói đi, người ta chỉ cho. Mọi người là cái đéo gì?
Cổ họng nghẹn
đắng, một lát sau ông gầm lên:
- Tôi không hỏi ai
hết? Tôi về với mọi người!
- Ô hô hô….
Tất cả cười vang,
giải tán. Ông chạy quanh, hai tay quờ quạng. Những bàn chân người đã biến mất,
chỉ còn gió và những tiếng cú kêu chập chờn trong hoàng hôn. Ông rũ
xuống nức nở khóc mãi.
Đến khuya ông trấn tĩnh trở lại. Ngồi một mình
giữa chợ hoang vắng, ông mới ngớ ra: Ờ nhỉ, ông về xuôi để tìm ai mới được
chứ? Ngu! Ông ngu quá! Bất chợt ông ngửa cổ lên trời cười ha hả.
Ông tìm về một chợ khác, lại một chợ khác một
chợ khác nữa. Bây giờ một mình ông, lại vẫn một mình ông giữa chợ thị trấn Đ.
đã tàn khách. Ông ngồi tựa vào một vách lều hát nghêu ngao. Vẫn bài hát đi bẫy
lươn ngày nào ông đã hát dọc con suối nằm xéo phía tây làng Mùi.
Làng Mùi đã chết, chỉ mỗi mình ông cô đơn giữa
cái chợ đã tàn khách. Ông nhớ làng Mùi, nhớ kinh khủng. Nhớ ông Sạc sứt môi hay
ca vọng cổ, chị Tím tâm thần hay đứng nói một mình, thằng Hi hay ăn trộm gà
hàng xóm, mụ Xanh chúa chửa hoang... Tất cả đã chết. Ông cũng đã chết theo họ,
ông không có mặt trong đời sống bây giờ, bởi vì ông chỉ là cái bóng giữa chợ
đông người.
Người ta coi ông
như một kẻ ăn xin. Nhiều người thương ông, giúi vào tay ông một củ khoai luộc,
một tấm bánh chưng, môi khúc thịt luộc... ông ăn, đói quá thì ông ăn nhưng ông
luôn mồm nói với mọi người rằng ông không phải là kẻ ăn xin. Không phải: ông
chết rồi: chết rồi cùng với Lẹ, người đàn bà thứ tư và toàn thể dân làng
Mùi... Bây giờ ông đang trôi nổi giữa đời sống dân làng Mùi, một đời sống chập
chờn lúc ẩn lúc hiện...
Lươn là lươn to
này... (i a) … Lươn là lươn dài này... (i a) ... Bài hát của ông trôi nổi giữa
hoang vắng trong đêm tối. Phơ phất những ngọn lá mía khô trên mái lều, ngớ ngẩn
tiếng chó sủa hờ, vênh váo tiếng ôtô trên đường cái quân... chừng như muốn bẻ
vụn bài hát của ông.
Đôi khi ông chợt nghe tiếng bước chân rất khẽ
đi quanh ông. "Ai đó?" - Ông ngừng hát hỏi. Chẳng có ai trả lời,
tiếng bước chân cũng tắt ngấm. Lại vẫn tiếng hát của ông trôi nổi giữa hoang
vắng. Ông hát để tự ru mình: "Ngủ đi, ngủ đi mày, cái thằng ngu..."
Và ông ngủ say sưa cho tới sáng.
Đêm nay cũng vậy,
ông đang tự ru mình. Lại có tiếng bước chân. Chắc là người nào đang nghè trộm
bài hát của ông. "Mặc bố nó!" - ông vẫn hát, không thèm dừng lại hỏi:
"Ai đó?" như mọi khi. Làng Mùi đã chết, chỉ còn ông. Trong ông, tất
cả đã chết. Chỉ còn làng Mùi. Tiếng hát ông chìm dần. chìm dưới đáy con suối
nằm xéo phía tây làng Mùi đang chảy róc rách qua ngực ông.
Chợt có tiếng động
khẽ, rất khẽ. Ông ngừng hát, đầu nghếch sang trái. Một bàn tay bất chợ giúi vào
tay ông một “nắm tiền” vừa chạm phải ông đã biết đó là một khoản tiền lớn.
- Ai? Ai cho tôi
tiền đây.. - Ông chộp lấy tay người đưa tiền giữ chặt. Đấy là tay một người
đàn bà, ông run lên.
Ai đây? - ông hỏi
và lập tức ôm quàng lấy chân người đàn bà đang cố bứt ra khỏi tay ông. Một cái
quẫy mạnh. Ông ngã ngửa. Người đàn bà bỏ chạy. Ông vùng dậy đuổi theo. Lập tức
trống ngực ông đập thình thình:
- Lẹ! Có phải Lẹ
không?
Người đàn bà đã chạy khá xa. Ông vừa chạy vừa
ngã giúi giụi.
- Lẹ! Lẹ ơi ! Lẹ?
Ông hét vang vang,
lồng ngực ông muốn vỡ tung, ông chạy, cứ chạy. chạy mãi và rơi vào một cái hố
sâu có lẽ là một hố bom. Ông ôm mặt khóc rưng rức...
Lẹ - người đàn bà
thứ tư đã bỏ ông mà đi, bỏ đi chứ không phải chết như ba người đàn bà trước.
Bây giờ chị có một tên khác, một nghề khác, một lý lịch khác để lấy một người
chồng khác ở ngay thị trấn Đ này. Chẳng hiểu vì sao vậy. Chỉ biết chị đương
chạy trốn ông, vừa chạy vừa khóc. Tiếng ông gọi tên chị vang vang. Chị lập tức
biến vào đêm tối của mọi người.
Ông bò lên khỏi hố
bom lập cập mò về chợ. "Lẹ, đúng là Lẹ rồi" - ông rền rĩ: Đã hai năm
ôm ấp nhau lẽ nào ông không nhận ra...
- Lẹ ơi, sao lại
thế?... - ông kêu gào thảm thiết.
Nhớ đến nắm tiền
hãy còn trong tay mình. Ông giơ nó lên cao - "Lẹ ơi sao lại thế
này?..." .
Ông khóc mãi.
khuya lắm ông mới ngừng khóc, ngồi tựa vào vách lều ngửa cổ cười gằn. Ông giơ
nắm tiền lên cười miết - "Cái này đây để tao về với mọi người à? Tiên sư
bố nó".
Ông rút bao diêm
thủ kín trong ngực áo ra. Xòe lửa. Cháy! Tiên sư bố nó! ông tung nắm lửa trên
trời, đứng cười ha hả. Nắm lửa rơi xuống túp lều thứ nhất. cháy! Rồi túp lều
thứ hai bắt lửa cháy! Cháy? Cháy! Ông hoảng lên, cố thoái ra khỏi đám cháy.
- Chợ cháy? - Ông
kêu to - Bà con ơi. Chợ cháy!
Keng keng! Keng!
Tiếng
kẻng báo động, liếng la hét, tiếng kêu cứu, tiếng chân người ào ào ào... lao về
chợ. Dập ngay
- Phía này! Cát
đâu? Nước?
- Nước! Nước!
- Cứu!
- Keng ! Keng ! Keng!
- Thằng nào đốt
chợ?
- Thằng nào đất
chợ?
- Thằng nào đốt
chợ?
Ông nghe rõ tất
cả, mồ hôi chảy đầm đìa. Ông bỏ chạy, cắm cổ chạy sấp ngửa trong đêm lối. Sau
gáy ông vẫn vang vang tiếng người quát, tháo: "Thằng nào đốt chợ"'
ông chạy vù vù.
Ngày hôm sau người
ta không thấy ông ở chợ nữa. Người thì nói ông đã bỏ trốn, người thì nói ông đã
bị cháy thành tro cùng với hàng trăm túp lều lá mía.
Mãi đến chín năm sau, mùa hạ 1981, tôi đi theo
đoàn địa chất đi khảo sát quặng sắt ở miền tây Quảng Bình, có gặp một cái dốc
ngắn, nhiều đá tai mèo gọi là 'Dốc vượn mù'. Một người trong đoàn kể rằng: Có
một con vượn mù ngồi trên chạc ba cây dẻ ở đỉnh dốc ngửa cổ cười suốt ngày.
Cười đến ngày thứ một trăm thì rơi xuống chân dốc chết đáng thương như một con
người.
Huế 1986.
Rút từ Truyện ngắn chọn lọc
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập. Truyện hay tuyệt vời. Tôi từng đọc nó khi lần đầu được in trên trang nhất của báo Văn nghệ thời Đổi mới. Cốt truyện hay, tình tiết hay, nghĩa đen hay mà nghĩa bóng cũng hay !
Trả lờiXóaCảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập. Truyện hay tuyệt vời. Tôi từng đọc nó khi lần đầu được in trên trang nhất của báo Văn nghệ thời Đổi mới. Cốt truyện hay, tình tiết hay, nghĩa đen hay mà nghĩa bóng cũng hay !
Trả lờiXóaCảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập. Truyện hay tuyệt vời. Tôi từng đọc nó khi lần đầu được in trên trang nhất của báo Văn nghệ thời Đổi mới. Cốt truyện hay, tình tiết hay, nghĩa đen hay mà nghĩa bóng cũng hay !
Trả lờiXóa