Nhà thơ, nhà phê bình Hoàng Thuỵ Anh
Kiến,
chuột & ruồi bắt đầu từ đũng quần. Đũng quần vá chằng vá đụp là Đời. Vì hầu
hết chúng ta đều sinh ra bên trong chỗ chắp vá ấy (tất nhiên, nói thì nói vẫn
chừa những kẻ ra đời cách một gang). Đũng quần là nơi hứa hẹn những mầm sống,
sinh sôi nảy nở. Nhưng nó cũng gợi mở những phận số nghèo khổ, cùng cực, tăm
tối. Chọn góc nhìn Đời qua đũng quần, Nguyễn Quang Lập dựng lại thời kỳ cải
cách ruộng đất đầy tăm tối, mông muội, bi thương. Trong truyện, Thị trấn Kô
Long chính là một xã hội thu nhỏ, gói trọn những năm tháng đầy máu và nước mắt.
1. Tôi - hài nhi, là người kể chuyện. Tôi
kể một cách hồn nhiên. Mọi thứ đối với tôi đều bất ngờ, lạ lẫm như cách tôi đón
nhận Đời. Tôi nhìn Đời qua đũng quần nên tôi đếch sợ ai, kể tuốt luột, kể bất
chấp không bỏ sót đường khâu mũi vá nào, kể cả chuyện riêng tư thầm kín của
mình. Vì thế, đọc Kiến, chuột & ruồi,
độc giả như đang tự mình trải nghiệm, cùng dấn thân vào tấn bi kịch của Thị
trấn Kô Long.
2. Kiến biểu tượng cho phận người mỏng
manh, lầm lũi, lam lũ. Kiến là biểu tượng của sự may mắn, gắn với lần Phạm Vũ thoát
án tử, được vàng ở Hói Ma, thăng chức. Kiến còn là âm hồn, bóng ma. Kiến đen
đặc dòng chữ “Tôi bị oan” như chất dày hơn nỗi oan ức của 26 người bị chém với
tội danh thành phần gián điệp cho Quốc dân Đảng, tiểu tư sản phản động.
3. Chuột là ký hiệu của âm ty, của những
kẻ lén lút ban đêm, thích lục lọi, soi mói. Chuột xuất hiện báo hiệu Phạm Vũ
rơi vào tình huống tréo ngoe. Từ quan lại cho đến dân Thị trấn Kô Long, đám trẻ
con,… đều như muốn lục tung cả cái chuồng bò mà gia đình Phạm Vũ đang ở. Những
đôi mắt tinh chuột luôn rình mò nhất cử nhất động của Phạm Vũ. Chuột còn là ký hiệu
của dịch bệnh. Dịch bệnh moi móc, tọc mạch để hãm hại nhau này truyền từ Thị
trấn lên Huyện, Tỉnh và đến cả Trung ương, rồi từ Trung ương truyền về lại như
một vòng tròn khép kín.
4. Ruồi thường sinh sôi ở nơi thối rữa,
bẩn thỉu. Sự phát triển bầy đàn của chúng thách thức những phòng vệ của con
người, cho nên, ruồi là ký hiệu của sự rượt đuổi không ngừng. Phạm Vũ rượt đuổi
ruồi, tránh ruồi nhưng ruồi càng bu lấy. Làng Kô Long đầy ruồi. Huyện, Tỉnh và
Trung ương cũng đầy ruồi. Chi tiết ma ruồi bám hai ống quần căng phồng và hành
động bỏ chạy thục mạng của Phạm Vũ, chi tiết lằng nằm sau gáy Phạm Vũ trùng
khớp với cái chết đột tử sau gáy của bác Đông trai như bóc mẽ cái dây thòng
lọng vô hình đen tối khủng khiếp của xã hội, sẵn sàng xiết cổ người dân mọi lúc
mọi nơi; như tố cáo nỗi sợ hãi, lo lắng, luôn tìm cách đề phòng, co mình lại
của Phạm Vũ.
5. Kiến, chuột & ruồi thực chất là
những bóng ma ám khói lên cái chuồng bò chứa 12 người (đứa sau cùng, 13, chỉ
nghe kể lại, chứ chưa được “tận hưởng” cái không gian đầy bi kịch ấy). Kiến,
chuột & ruồi cùng với “ma người” thiết kế nên cái chuồng bò đặc biệt - ký
hiệu của một giai đoạn lịch sử đặc biệt đầy bi thương - cải cách ruộng đất. Cái
chuồng bò trở thành nơi trú ngụ hỗn tạp của người, kiến, ruồi, chuột. Hôi hám,
bẩn thỉu nhưng cái chuồng bò là tấm thẻ căn cước tồn tại, để Phạm Vũ rời bỏ
thành phần trung nông làm dân nghèo thành thị. Là bệ phóng để Phạm Vũ chứng tỏ
tình yêu, lòng trung thành với cách mạng. Là bệ phóng để Phạm Vũ thăng chức,
tìm cách chống chọi, đè bẹp đám âm binh. Nhưng đó cũng là nơi để Phạm Vũ che
dấu những run rẩy, hèn yếu của mình trước những bóng ma thời cuộc hắc ám.
6. Hói Ma với 3 màu diệp lục, đỏ, đen đặc
mang những ký hiệu khác nhau: sự sống, điềm báo và cái chết. Hói Ma đúng như
tên gọi của nó, là không gian sống & chết của các loại ma: ma kiến, ma
chuột, ma ruồi và ma người. Cuộc sống của các nhân vật thường gắn liền với Hói
Ma. Hói Ma có thể là nơi kiếm sống của kẻ này nhưng lại là nơi chết của kẻ
khác. Hói Ma cũng là ký hiệu thăng - giáng trong cuộc đời Phạm Vũ. Hói Ma đổi
thay màu bí ẩn, bất ngờ như chính cuộc đời của các nhân vật. Các nhân vật trong
truyện lúc ma lúc người, chẳng biết đường nào mà lần. Cách mạng cũng như Hói
Ma. Chẳng biết đường nào chứng tỏ tình yêu cho đúng đắn, hợp lẽ, hợp tình với cấp
trên. Không cẩn thận thì bị chặt đầu oan như bà Mai và 25 người khác hoặc may mắn
thoát chết thì cũng bị dập xuống nảy lên như Phạm Vũ.
7. Giấc mơ là ký hiệu của ham muốn, biểu
thị những dục vọng bị kìm nén của con người. Giấc mơ của Thu - mạ tôi - vợ Phạm
Vũ, về lũ chuột ở Hói Ma dự báo điềm xấu. Giấc mơ hình trụ của ba tôi - Phạm Vũ,
thể hiện những khoảnh khắc nghiệt ngã, cận kề cái chết. Giấc mơ của dị nhân Kiểm
Hát gắn liền với phận số Phạm Vũ. Lão mơ gì thì ngày sau Phạm Vũ nhận như thế.
Giấc mơ của Kiểm Hát vì thế có chức năng dự báo. Kiểm Hát là dị nhân, say
khướt, say lại chửi, nên có thể nói, giấc mơ là nơi lão mới được sống, được
nghĩ thực sự. Trao giấc mơ tiên đoán cho kẻ dị nhân, phải chăng nhà văn muốn
chứng minh rằng: cái giai đoạn đau thương, xáo trộn này, rốt cuộc, chỉ kiểu dị
nhân như Kiểm Hát mới tồn tại, mới song hành một cách “an toàn” với cách mạng
được.
8. Sex, trong giai đoạn cải cách ruộng
đất, hẳn nhiên là điều cấm kỵ. Sex trong tiểu thuyết Kiến, chuột & ruồi hôm nay, đúng là xả sex. Nhà văn viết sex
cởi mở, táo bạo, dữ dội nhưng đầy chất tưng tửng, trào lộng. Ngọc hành, bánh ú
chúm chím trở đi trở lại chứng thực sự giao phối hết sức tự nhiên, bản năng của
con người. Nhưng theo tôi, cái mà nhà văn muốn nói thông qua sex mới chính là
vấn đề cốt lõi. Tiếng rên rỉ của chị Hiên khi làm tình như tiếng mèo kêu hoang,
rú ngược lên, là ký hiệu của khát vọng đam mê quyền lực danh vọng. Bằng chứng
là chị Hiên đã dùng nguyên lý khép mở của con bướm, vịn vào đó mà bay lên. Con
bướm của chị bay từ Phạm Vũ sang Đội trưởng, rồi từ Đội trưởng sang Thủ trưởng.
Sau này bị Lâm Thủ trưởng, vợ Thủ trưởng, đẩy chết sông, nhưng cuộc đời chị
Hiên xem như cũng đã vận hành khá tốt bộ máy nguyên lý khép mở mấy đời nhà chị:
khép khi chờ thời cơ, mở khi lợi dụng uy quyền. Ngọc hành của Đội trưởng dập chị
Hiên, rồi tiếp tục dập Lâm Thủ trưởng. Để “sửa sai”, Đội trưởng sẵn sàng cắt
cu. Cắt cu rồi cu lại càng hăng hơn sau khi nối. Nhờ cu nối mà Đội trưởng lên
làm Thủ trưởng đó thôi. Sex của mạ tôi và ba tôi thì khác. Nhờ sex mà mạ tôi luôn
giữ được hạnh phúc với ba tôi, và còn phôi thai thêm thằng thứ 11. Nhờ sex, ba
tôi trở lại người bình thường sau một thời gian dài “căng mình” làm Chủ tịch Tỉnh.
9. Tiếng rít điếu cày và cái xe biển số
2211 đều là ký hiệu của những bóng ma đen tối, đại diện cho những kẻ ghen ăn
tức ở, lấy tố cáo làm lẽ sống. Tiếng rít điếu cày của Đội trưởng cứ vây bủa, thọc
vào cuộc sống Chủ tịch Tỉnh Phạm Vũ, khiến Chủ tịch ăn ở không yên, lo lắng đến
độ sinh ra tật giật mình, đái ra quần. Cái xe biển số 2211 cũng thế, như là mắt
tai của Đội trưởng, Thủ trưởng, theo Phạm Vũ mọi lúc mọi nơi, càng khiến Phạm
Vũ rơi vào tình trạng ngột ngạt, căng thẳng, áp lực. Tuy nhiên, mặt trái của
vấn đề lại khác, thông qua tiếng rít điếu cày và cái xe biển số 2211, Nguyễn
Quang Lập như muốn khẳng định cái tàn bạo không bao giờ ngừng đeo bám người
dân; như muốn giễu cợt, mỉa mai cái nhút nhát, sợ sệt, mặc cảm của Chủ tịch
Tỉnh Phạm Vũ. Là Chủ tịch Tỉnh rồi vẫn chưa tự tin trước quyền lực mà mình đang
có.
10. Cái chuồng bò là trung tâm của mọi
góc nhìn. Nơi này từng chứa 12 sinh mệnh (đã chết 3 đứa con). Tạm bợ. Bẩn thỉu.
Cũng là chỗ trú của kiến, chuột và ruồi. Truyện đắt ở cái chuồng bò này. Các
bóng ma: ma người, ma kiến, ma chuột, ma ruồi nhìn cái chuồng bò một cách thèm
thuồng, muốn ăn tươi nuốt sống, dẫu hôi hám, nhơ bẩn. Phạm Vũ quyết không rời
cái chuồng bò. Chuồng bò là cứu cánh, giúp Phạm Vũ hạ thành phần và thăng chức.
Vậy ra, cái chuồng bò rất có giá trị: hôi mà ngon, bẩn thỉu mà cần thiết. Xa
hơn, cái chuồng bò là sân khấu nhỏ của Thị trấn Kô Long, Thị trấn Kô Long là
sân khấu lớn của xã hội. Bi kịch trong cái chuồng bò như một dấu chấm đen không
bao giờ gột rửa được.
11. Mỗi nhân vật trong Kiến, chuột & ruồi ký hiệu cho một cách
sống.
* Thủ trưởng, kẻ xuất hiện và biến mất
luôn đột ngột. Đột ngột, bất ngờ như cách mạng. Chín chữ “Đồng chí rất tốt, tôi
tin tưởng đồng chí” mà ai cũng thầm được khen nhưng ai cũng sợ. Vì Thủ trưởng
là kẻ hai trong một, như lời bà Mai. Thủ trưởng là hai người: Thủ trưởng này và
Thủ trưởng kia. Sống với Thủ trưởng, Phạm Vũ từ chỗ tin cậy, vô tư đến chỗ đề
phòng, dè chừng tuyệt đối. Nhưng chẳng thể nào đề phòng nổi. Đề phòng Thủ
trưởng này thì lại gặp Thủ trưởng kia. Ngay cả bà Lâm vợ Thủ trưởng cũng vấp
phải, huống chi Phạm Vũ. Bóng ma Thủ trưởng có mặt khắp mọi nơi. Cuộc cải cách
ruộng đất đã đẻ ra những Thủ trưởng như thế.
* Đội trưởng dưới trướng của Thủ trưởng
nhưng lộng quyền, xảo quyệt, ăn chơi. Thủ trưởng ban quyền sinh quyền sát cho
Đội trưởng. Đội trưởng thực thi bốc lột, sát hại người dân. Những hành hạ, bắt Phạm
Vũ làm gần 60 cái điếu cày và đạp xe 40 cây số mỗi ngày mua 2 lạng thuốc lào
chỉ để chứng tỏ cái uy quyền đầy ngu dốt, để thử lòng, xem Phạm Vũ có trung
thành với Đội trưởng không. Mà trung thành với Đội trưởng là trung thành với
Thủ trưởng, trung thành với Thủ trưởng là trung thành với cách mạng. Đội trưởng
là một kẻ thừa thắng xông lên. Có cơ hội là tìm cách triệt tiêu ngay. Không có
cơ hội thì tạo ra cơ hội để xử lý. Như trường hợp Phạm Vũ. Tổng số 26 người
chết oan trong truyện đã tố cáo tội ác tày trời của cấp trên mà Đội trưởng là
kẻ trực tiếp thực thi mệnh lệnh. Luật bất thành văn: Dân sai thì chém ngay. Cấp
trên sai thì sửa sai. Thực chất, luật sửa sai của cấp trên chỉ là trò hề mà thôi.
Sửa sai kiểu gì, mà rốt cuối, Đội trưởng vẫn là “người kế cận” của Thủ trưởng, vẫn
thay mặt Thủ trưởng ngầm theo dõi, áp đảo người dân. Cả cuộc đời Phạm Vũ như
hình với bóng với Đội trưởng. Phạm Vũ bị bắt bỏ tù cũng vì mắc mưu Đội trưởng. Thoát
thân cũng nhờ Đội trưởng quá thèm thể hiện cách xử trảm độc địa, duy nhất của
mình. Kể cả khi Đội trưởng bận đi nối cu ở phương xa thì cái điếu cày của hắn tiếp
tục thay mặt hắn làm nhiệm vụ theo dõi Phạm Vũ.
* Chị Hiên, một người đàn bà hám của,
tham vọng bất chấp. Cái bánh ú chúm chím của chị là mồi nhử. Chị là kẻ gió thổi
chiều nào theo chiều ấy, lấy việc tố cáo kẻ khác làm nguyên tắc sống, lấy rình
mò hòng kiếm lợi. Cũng vì nghe lóm Phạm Vũ có 200 cây vàng mà chị quyết lặn lội
mò về Kô Long kiếm chác và tố cáo. Cũng vì Phạm Vũ là Chủ tịch Thị trấn mà chị
quyết đưa cái bánh ú chúm chím khiêu gợi, mồi chài. Cũng vì Đội trưởng quyền uy
hơn Phạm Vũ nên chị theo bằng được Đội trưởng, bám vào Đội trưởng, kích động
người dân hoan hỉ với cách xử trảm man rợ đồng loại mình. Cũng chỉ vì mong có
được Thủ trưởng, vì Thủ trưởng to hơn Đội trưởng, mà chị vĩnh viễn chấm dứt
cuộc đời cùng cái giống khép mở.
* Phạm Vĩ và Phạm Phú Huệ, hai anh em
chung tinh trùng nhưng khác chỗ đẻ. Phạm Vĩ nhận Phạm Vũ làm con nuôi, để lại
một túi vàng 200 cây cho Phạm Vũ, sẵn sàng cung cấp, phục vụ mọi thứ cho cách
mạng nhưng luôn tìm cách bỏ trốn khi cách mạng thành công. Riêng Phạm Phú Huệ
thì không rời triết lý “không liên quan”, ăn chắc mặc bền. Ai ngờ đâu thời thế
thay đổi, Phạm Vũ ra nước ngoài với một mớ tài sản kếch xù, còn Phạm Phú Huệ bị
mất trắng. Theo hay không theo cách mạng, ai được ai mất, lại chẳng biết đường
nào mà lần.
* Đọc cả truyện, tôi thích nhân vật dị
nhân Kiểm Hát nhất. Dị nhân nhưng không dị tâm. Kiểm Hát chả sợ ai. Lão đan nơm
kiếm sống sau 8 lần trừ gian diệt ác bị cụt hai chân. Rượu và cái loa là niềm
vui lẽ sống của lão. Nhưng đằng sau con người dở dở ương ương ấy là cái tâm vô
cùng trong sáng. Lão tìm cách cứu Phạm Vũ và gia đình Phạm Vũ khi khó khăn hoạn
nạn. Lão được gửi gắm 200kg vàng từ Phạm Vĩ nhưng không hề sứt một mẻ nào. Phải
chăng say và dở dở ương ương, làm trò cười cho mọi người là cách lão đối phó
với cuộc sống? (Mà cuộc sống đang được cai trị bởi những bóng ma chập chờn như
Đội trưởng, Thủ trưởng). Và chỉ có lão mới nghĩ ra chuyện đốt cái chuồng bò,
giúp Phạm Vũ lấy lại nhà cũ. Phải chăng hành động lão đốt chuồng bò là cách lão
tống tiễn những gì hôi hám, nhơ nháp và cùng khổ, đau thương nhất của gia đình Phạm
Vũ nói riêng và cái giai đoạn lịch sử đặc biệt này nói chung. Trong Thị trấn Kô
Long, không ai tự do như lão. Lão chửi đù má, cặc, ẻ quẹt... một cách sung
sướng mà chẳng lo ai dòm ngó, nhiêu khê.
* Vợ Phạm Vũ đại diện cho mẫu người phụ
nữ thuỷ chung, cam chịu, nhẫn nhục, yêu chồng thương con vô điều kiện. Bà biết
hết những quan hệ bên ngoài của Phạm Vũ nhưng không một lời giận hờn, trách móc.
Bà chấp nhận những thương tổn trong tình cảm vợ chồng chỉ mong giữ gìn mái ấm. Bí
quyết của bà là kích thích ham muốn của Phạm Vũ mỗi đêm. Phạm Vũ dù bên mấy
chục người phụ nữ khác cũng không thể quên bà.
* Phạm Vũ là một lãnh đạo trong sạch, trung
thành với cách mạng, yêu thương quần chúng. Phạm Vũ không loá mắt vì tiền của
ba nuôi mà xa rời cách mạng. Ông đứng về phía nhân dân, về phía cách mạng,
tuyệt đối tin yêu. Song sự tin yêu của ông đặt không đúng chỗ. Thủ trưởng, Đội
trưởng luôn hai mặt với ông, thậm chí, đẩy ông vào đường cùng. Sau càn quét,
truy sát, đấu tố địa chủ đầy khốc liệt, ai nghèo nhất, bần cùng nhất thì được
làm quan, cho nên việc Phạm Vũ giữ cái chuồng bò là đương nhiên, là cần thiết.
Muốn tồn tại phải giữ chuồng bò. Muốn tồn tại phải giữ lấy cái nhơ bẩn, hôi
hám, nghèo khổ. Chấm dứt ngày tháng sống cùng cừng cực, Phạm Vũ vẫn giữ nguyên tâm
thế lúc ở chuồng bò: sợ hãi, lo lắng. Lên làm quan lớn, Chủ tịch Tỉnh vẫn hoang
mang, khiếp sợ. Như vậy, hoàn cảnh đồng loại tận diệt nhau đã đẻ ra con người Phạm
Vũ: muốn tiến thân chặn những bóng ma nhưng bóng ma này mất đi lại có bóng ma khác
thay thế. Do đó, cuộc đời Phạm Vũ luôn trong tư thế trườn lên rồi tụt xuống và
ngược lại. Phạm Vũ đi theo cách mạng, nhưng cách ông ứng phó với cuộc thế, cho
thấy, ông không ủng hộ quan điểm “hạnh phúc là đấu tranh”, cũng không theo lối
sống “nửa vời”. Phạm Vũ nhận thức được cái khủng khiếp đang đè nén lên người
dân, đè nén lên mình. Bề mặt của hai từ “đồng chí” là “ngọt ngào” xóa bỏ bất
công, áp bức bóc lột cho người dân nhưng bề sâu là trận địa tranh giành, hằn
thù đầy khốc liệt. Phạm Vũ khát khao thăng chức đè bẹp đám âm binh, nhưng đám
âm binh lại giăng khắp, trỗi lên, tìm cách giẫm đạp Phạm Vũ. Cuộc chiến của Phạm
Vũ tuy đơn độc nhưng không vì thế mà đánh mất mình, sa lầy vào đám âm binh. Như
vậy, tất thảy mọi người, từ bần, cố nông cho đến cấp trên đều nằm trong cái
guồng đảo điên của cải cách ruộng đất.
* Nhân vật đám đông. Bị kìm hãm trong
đói nghèo, cực khổ, bần cùng nên người dân Thị trấn Kô Long luôn bị những bóng
ma cải cách ruộng đất lừa bịp, kích động, xúi giục, dắt mũi. Họ như những cái
máy ăn theo nói leo, mù quáng, mông muội. Bảo làm cách mạng thì làm cách mạng. Bảo
hô muôn năm, đả đảo thì hô muôn năm, đả đảo. Chứ thực tình chả hiểu cách mạng
là gì, Quốc dân Đảng là gì, đả đảo là gì,... Truyền thống đùm bọc, yêu thương
đã bị biến mất vì cái sự đấu tố nhau, chứng minh thành phần. Vòng tròn rình
rập, theo dõi nhau trở thành lẽ sống của người dân Thị trấn Kô Long. Những đứa
trẻ ngây thơ cũng bị đầu độc, học vẹt, bắt chước người lớn vang hô các khẩu
lệnh. Cùng với đó, sự ít học, chân quê và tâm lý “con ong cái kiến” khiến hành
động của họ đổi thay thất thường, lúc cuồng loạn, lúc ngây thơ, cả tin, lúc kéo
sát vào lúc dãn ra theo quy luật thăng trầm của đời Phạm Vũ.
Các ký hiệu trong Kiến, chuột & ruồi liên thông, liên đới, liên kết với nhau dựng
nên tấn bi kịch của một giai đoạn lịch sử mang tên CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT. Nơi nhất
cử nhất động đều bị những bóng ma Đội trưởng, Thủ trưởng tàn sát hết thảy.
Không loại trừ cá thể nào. Kể cả hai con chó trung thành như con Ba Đốm và con
Lu.
Mỗi nhà văn có một cách viết riêng về
lịch sử. Kết hợp thực và ảo, Nguyễn Quang Lập đã “bạch hoá”, đối thoại lịch sử hết
sức thẳng thắn: Cách mạng luôn luôn đúng. Làm sai thì phải sửa sai. Nhưng cách
mạng luôn luôn đúng thì làm sao có thể có chuyện bắt oan? Hiện nay, nhiều tác
phẩm phơi bày sai lầm của quá khứ nhưng chưa đủ đánh thức người đọc. Chúng ta cần
những tác phẩm như Kiến, chuột & ruồi,
để con người học cách tự điều chỉnh mình, nhân ái và thánh thiện hơn. Văn học
song hành với đời sống xã hội, có chức năng cảnh tỉnh và dự báo. Vì vậy, chúng
ta không nên trốn tránh hay đánh đổ những tác phẩm tưởng như trái chiều, mà cần
tìm trong ấy, chắt lọc trong ấy những tiếng nói chân thực và tâm huyết.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét