Chiều 30.8.1945 tại lầu Ngũ Phụng trên mái Ngọ Môn- Huế, vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho phái đoàn đại diện chính phủ lâm thời của Việt Minh do ông Trần Huy Liệu làm trưởng đoàn. Hồi ký Trần Huy Liệu, vua Bảo Đại và Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của vua là ông Phạm Khắc Hoè đều không nói rõ ấn gì, kiếm nào. Nhưng không mấy người quan tâm tới ấn kiếm. Người ta chỉ thích thú được biết vua Bảo Đại hai tay nâng ấn kiếm trao cho cán bộ Việt Minh mới ở rừng về. Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè viết: “Bảo Đại hai tay đưa lên trao cho ông Trưởng đoàn Đại biểu chính phủ quốc ấn bằng vàng nặng gần mười ki lô gam và chiếc quốc kiếm để trong vỏ bằng vàng nạm ngọc.” Tước ấn kiếm của Hoàng đế Bảo Đại, Trần Huy Liệu viết: “Bảo Đại giơ hai tay dâng chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn hình vuông.” Con rồng Việt Nam, vua Bảo Đại không viết trao hai tay hay trao một tay, ngài viết chỏn lọn mỗi câu: “Trong một bầu không khí bực dọc, tôi trao nhanh ấn tín quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu, mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây mà lại.”
Nhà nghiên cứu văn hoá Huế Nguyễn Phước Hải Trung, con trai nhà thơ Hải Bằng, cho là vấn đề không phải vua Bảo Đại trao hai tay hay một tay. Điển lễ xưa nay nhà vua không trực tiếp trao cho ai bất cứ cái gì. Theo ông việc trao ấn kiếm phải thế này mới đúng lễ, ông viết: “Một viên đại thần bê khay (đặt ấn+kiếm trên khay) đến và quỳ xuống, vua Bảo Đại đặt tay lên ấn kiếm, tượng trưng cho đế quyền như một tuyên bố thoái vị từ thời khắc đó. Đại diện Chính phủ Lâm thời bước đến và nhận lấy ấn kiếm, nhận lấy quyền lực vừa được chuyển giao.”
Bảy năm sau, ngày 28.2.1952 một toán lính Pháp tìm thấy ấn kiếm nói trên ở chân móng ngôi nhà bị tàn phá của ông Hà Văn Đô tại làng Nghĩa Đô, Hà Nội. Có lẽ người của Chính phủ Việt Minh trú ở nhà này, tháng 12.1946 trước khi rút khỏi Hà Nội đã dấu vội ấn kiếm ở đây. Ngày 8.3.1952 Pháp tổ chức trao ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại tại đại lộ Puginier (phố Điện Biên Phủ ngày nay). Lễ om sòm nhưng Bảo Đại không có mặt, ngài đang ở cùng vợ con ở lâu đài Villa les Pins bờ biển Côte d’Azur thành phố Cannes.
Từ đây, qua báo chí Pháp người ta mới biết chiếc ấn có tên Hoàng Đế Chi Bảo đúc từ Minh Mạng năm thứ tư, 4.2.1823. Quốc kiếm khắc dòng “Khải Định niên chế” (Chế vào thời Khải Định) và “Trọng kim tứ lạng thập thất phân” (kiếm nặng 4 lượng 17 phân).
Kim bảo "Hoàng Đế Chi Bảo" là quả ấn được đúc bằng vàng ròng nguyên chất vào năm Minh Mệnh thứ 4 (1823). Đài chồng 2 núm rồng ngồi xổm, vuông 3 tấc 2 phân, dày 5 phân. Mặt ấn khắc 4 chữ triện 皇帝之寶 (Hoàng Đế Chi Bảo). Mặt trên của ấn, ở hai bên khắc chìm hai dòng chữ 明命肆年貳月初肆日吉時 鑄造 (Minh Mệnh tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo- đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mệnh thứ 4) và dòng chữ 拾成黃金重貳百捌拾兩玖錢貳分 (Thập thành hoàng kim trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân- làm bằng vàng mười, nặng 280 lạng 9 chỉ 2 phân (tương đương khoảng 10,7 kg).
Ảnh và chú thích rút từ trang web của Trung tâm lưu trữ quốc gia 1.
Ảnh và chú thích rút từ trang web của Trung tâm lưu trữ quốc gia 1.
Cả Thực lục và Hội điển(1) đều chép sự kiện đúc ấn Hoàng Đế Chi Bảo, chỉ rõ việc dùng ấn, cho thấy ấn này có tầm quốc ấn. Nhưng sách Từ Điển Nhà Nguyễn(2) lại cho Hoàng Đế Chi Bảo là ấn ngự dụng, không phải ấn truyền quốc. Sách này đặt câu hỏi: “Tại sao vua Bảo Đại không trao ấn Đại Nam Thọ Thiên Vĩnh Mạng Truyền Quốc Tỉ, ấn tượng trưng vương quyền chánh thống cho chính quyền mới, mà lại trao Hoàng Đế Chi Bảo, là ấn dùng để làm việc thường ngày?”
Lại phải lần dò lịch sử 300 năm, từ thời Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu, mới rõ ngọn ngành.
Tháng 10 năm 1558 Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào trấn thủ Thuận Hóa mang theo ấn Tổng trấn tướng quân(3) vua Lê ban. Trải hơn 133 năm với 5 đời chúa vẫn ấn trấn thủ ấy không đổi. Tới đời Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), năm 1708 Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên, Đàng Trong liền một dải từ Sông Gianh tới Năm Căn thái bình thịnh trị, chúa Minh mới nghĩ tới việc xác định chủ quyền, đúc quốc ấn.
Thực lục chép: “Kỷ Sửu, năm thứ 18 [1709], Mùa đông, tháng 12, ngày Nhâm Dần, đúc quốc bảo. Sai Lại bộ đồng tri là Qua Tuệ Thư coi việc chế tạo (ấn khắc chữ Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo. Năm ấy đúc xong, về sau liệt thánh truyền nhau lấy làm quốc bảo.” Có lẽ danh xưng Chúa Quốc (Quốc Chúa) của Chúa Nguyễn Phúc Chu bắt đầu từ đây. Để khỏi dài dòng, tạm gọi ấn này là Ấn Chúa Quốc.
Lại phải lần dò lịch sử 300 năm, từ thời Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu, mới rõ ngọn ngành.
Tháng 10 năm 1558 Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào trấn thủ Thuận Hóa mang theo ấn Tổng trấn tướng quân(3) vua Lê ban. Trải hơn 133 năm với 5 đời chúa vẫn ấn trấn thủ ấy không đổi. Tới đời Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), năm 1708 Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên, Đàng Trong liền một dải từ Sông Gianh tới Năm Căn thái bình thịnh trị, chúa Minh mới nghĩ tới việc xác định chủ quyền, đúc quốc ấn.
Thực lục chép: “Kỷ Sửu, năm thứ 18 [1709], Mùa đông, tháng 12, ngày Nhâm Dần, đúc quốc bảo. Sai Lại bộ đồng tri là Qua Tuệ Thư coi việc chế tạo (ấn khắc chữ Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo. Năm ấy đúc xong, về sau liệt thánh truyền nhau lấy làm quốc bảo.” Có lẽ danh xưng Chúa Quốc (Quốc Chúa) của Chúa Nguyễn Phúc Chu bắt đầu từ đây. Để khỏi dài dòng, tạm gọi ấn này là Ấn Chúa Quốc.
Ấn Chúa Quốc: Đại Việt Quốc Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo.
Mặt ấn.
Ấn Chúa quốc có mặt hình vuông, núm là tượng lân vờn ngọc, đầu ngẩng lên cao quay về bên trái. Chân trước bên phải chống, chân trước bên trái dẫm lên viên ngọc, hai chân sau chùng xuống. Dọc lưng kỳ lân chạm vân mây lửa. Hai bên lưng ấn khắc hai dòng chữ Hán. Bên trái khắc “Kê bát thập kim, lục hốt, tứ lạng, tứ tiền, tam phân”. ( Cộng vàng 8 tuổi, nặng 6 thoi, 4 lạng, 4 tiền, 3 phân). Bên phải khắc 11 chữ “Vĩnh Thịnh ngũ niên, thập nhị nguyệt sơ lục nhật tạo” (Dịch nghĩa: chế tạo vào ngày 6 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh 5 - tức năm 1709 dưới triều Vua Lê Dụ Tông). Mặt ấn đúc nổi 4 chữ triện, nét chữ vuông uốn nhiều góc, xung quanh là đường viền, đọc theo chiều từ trên xuống dưới, và từ phải qua trái là: Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh trấn chi bảo (“Bảo của chúa Nguyễn nước Đại Việt trấn giữ lâu dài”). Cạnh dưới khắc dòng 9 chữ Hán “Lại bộ Đồng Tri Qua tuệ Thư giám tạo” (“Quan trông nom việc chế tạo là Đồng Tri bộ Lại Qua Tuệ Thư”).
Ảnh và chú thích ảnh rút từ trang web của Bảo Tàng quốc gia.
Năm 1715, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng tại chùa Thiên Mụ tấm bia cao 2m60 rộng 1m25. Chúa đích thân viết bài minh văn “Ngự kiến Thiên Mụ Tự” 1250 chữ, cho khắc vào bia. Hình dấu Ấn Chúa Quốc được khắc đè lên dòng chữ đầu và cuối bia khéo đến nỗi như dấu ấn đóng lên bia đá, chỉ dấu thiêng của ấn truyền quốc.
Bia “Ngự kiến Thiên Mụ Tự” của chúa Nguyễn Phúc Chu- Ảnh Võ Thạnh (VnExpress 13.2.2021)
Mà thiêng thật. Thực Lục cho hay: “Kỷ Sửu, năm thứ 18 [1709], Mùa đông, tháng 12, ngày Nhâm dần đúc Quốc bảo.” Sang năm “Canh Dần, năm thứ 19 [1710], mùa xuân, tháng 3, được mùa to.”
Một lần mùa đông năm 1776, Tây Sơn đuổi Nguyễn Phúc Thuần chạy đến Ba Giòng (thuộc Định Tường). Thực lục chép: “Chúa giao cho Cai đội Lê Chữ giữ một cuốn kim sách 4 tờ (sắc phong chạm trên sách bằng vàng), chiếc ấn vàng truyền quốc và 3 quả ấn đồng quan trọng khác. Đến sông Tra Giang (Trà Giang?) gặp giặc, Chử sợ chạy, quăng cả sách và ấn xuống sông. Đến đây lại về chỗ cũ mò được, đem dâng.”
Một lần, năm 1777 Chúa Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn bắt, giết ở Long Xuyên. Quân cơ tan nát rã đám, tưởng ấn cũng mất theo. Không ngờ ấn lại về Nhà Nguyễn. Thực lục chép: “Mậu tuất năm thứ 1 [1778] mùa xuân, tháng giêng, vua (tức Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh) đóng ở Sài Gòn, Đỗ Thanh Nhân cùng các tướng tôn vua lên làm Đại nguyên soái quyền coi việc nước (17 tuổi)…. Thủ ngự đạo Quang Hóa là cai đội Lê Chử đem kim sách và quốc bảo của tiên triều đến dâng. Vua (Nguyễn Vương), khen và thưởng.”
Một lần vào năm 1782, quân Tây Sơn đánh Gia Định, Nguyễn Vương đại bại, phải chạy ra đảo Phú Quốc. Thực lục chép: “Mùa hạ năm Nhâm dần, giặc đánh Sài gòn, [Thế tổ] ra đảo Phú Quốc, điều khiển Ngô Công Quý mang ấn theo sau bị lạc. Đến khi Chu Văn Tiếp phá được giặc, rước vua hồi loan, Công Quý cũng từ Long Hồ đem ấn về hiến.”
Một lần, đâu như năm 1783, Thực lục chép: “Lại đến chiến dịch Ba Lai, quân giặc đuổi gấp, tòng thần (Người đi theo vua) mang ấn lội sông chạy, ấn rơi xuống nước, rồi thì người lội sau vướng chân chạm phải, lại mò lấy được, đem hiến ở hành tại.”
Lần thứ năm vào năm 1784, bại trận và bị Tây Sơn rượt đuổi, Nguyễn Vương phải đem gia quyến chạy ra trốn ở đảo Thổ Châu. Thực lục chép: “Mẹ vua và cung quyến (cung phi và con vua) đều đến lại ở đảo, vua Xiêm sai tướng là Thát Xỉ Đa đem binh thuyền đến đón vua mới vào nước họ. Trong lúc thảng thốt, tình trạng người Xiêm chưa lường được thế nào, vua mật sai tòng thần tên là Hựu đem ấn ấy vượt biển lên bờ giấu kín. Khi vua đến thành Vọng Các ( Bangkok ngày nay), thấy vua Xiêm đãi rất cung kính, không có ý gì khác, vua mới sai người về đảo Thổ Châu để đón từ giá và cung quyến, tên Hữu cũng mang ấn ấy đi theo”.
Quá tam ba bận, với Ấn Chúa Quốc là năm bận “Châu về hợp phố”, chuyện quá lạ lùng.
Tín niệm người xưa cái ấn thiêng lắm. Ấn còn thì quyền còn, mất ấn thì mất quan, mất quyền, thậm chí mất cả tính mạng. Với ấn truyền quốc mất ấn là mất nước. Thời Tam quốc nước Tàu có chuyện Tôn Kiên bắt được ấn truyền quốc mang về Lạc Dương trừ Đổng Trác là một ví dụ. Ấn Chúa Quốc năm lần trở về với nhà Nguyễn, tất là ấn thiêng.
Vậy nên vua Gia Long quyết định chọn Ấn Chúa Quốc làm ấn truyền quốc của Nhà Nguyễn. Vua ra dụ cho người kế nghiệp là Thái tử Đảm (vua Minh Mạng sau này) dặn dò những điều hệ trọng.Thực lục chép: “Ấn báu này, các đời truyền nhau, ngày xưa đã trải qua nhiều phen binh lửa, người chẳng chắc còn, mà ấn này vẫn giữ trọn trước sau, chiếu văn và bổ dụng quan lại đều dùng ấn này, giữ tín trong nước, ai cũng hưởng ứng. Ấn này quan hệ tới quốc gia không nhỏ, thực là ngôi báu trời cho mà vẫn có quỉ thần giúp đỡ, khiến cho ngọc bích của Triệu4 lại trở về để truyền cho con cháu…Từ nay về sau nên lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu ta phải đời đời để lại cho nhau, đừng làm mất đi mà truyền đến ức muôn năm dài lâu mãi mãi.”
Từ khi lên ngôi báu đến khi về trời, vua Minh Mạng một mực vâng mệnh vua cha giữ gìn Ấn Chúa Quốc như giữ ngôi báu của mình. Thực lục chép: “Năm Canh Thìn, Minh Mệnh năm thứ 1, tháng 2, ngày tốt, Thánh tổ Nhân hoàng đế (vua Minh Mạng) tự tay phong kín cất đi. Đến năm Đinh Dậu thứ 18 ngày 22 tháng chạp lại mở xem một lần rồi viết chữ son niêm lại để cất như cũ, dùng để truyền cho ức muôn đời. “
Nước Đại Nam dưới triều Minh Mạng thái bình thịnh trị, sang triều Thiệu Trị vẫn thái bình. Kịp tới tháng 6 năm 1846 có người dâng vua ngọc quí, vua Thiệu Trị nảy ra ý làm ấn truyền quốc thay thế ấn truyền quốc của Chúa Quốc. Tới tháng 5.1847 ngọc tỷ truyền quốc làm xong. Thực lục chép: “Đinh Mùi, Thiệu Trị năm thứ 7 [1847], mùa hạ, tháng 5.Tiết Vạn thọ. Quả ấn bằng ngọc khắc xong. Năm Thiệu Trị thứ 6 [1846], gặp tiết Vạn thọ đại khánh, có người trình dâng một viên ngọc quý rất to, sai thợ ngọc giũa khắc thành quả ấn. Năm nay, ngày lễ tế Giao, vua đem việc ấy mật cáo, lấy ngay ngày ấy bắt đầu làm, khắc mấy chữ “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ” (Quả ấn truyền quốc của nước Đại Nam chịu mệnh trời ban cho lâu dài).” Cũng để tránh dài dòng, tạm gọi là Ấn Thiệu Trị.
Thực lục dành hầu hết hai quyển 68 LXVIII và 69 LXIX, bản dịch với 3000 từ kể lể dài dòng ngọc quí ra sao, việc đúc ấn ngọc khắc chữ thế nào, lễ trình ấn rất long trọng trước Thế miếu và dụ của vua về sự cần thiết làm Ấn Thiệu Trị.
Thực lục dành hầu hết hai quyển 68 LXVIII và 69 LXIX, bản dịch với 3000 từ kể lể dài dòng ngọc quí ra sao, việc đúc ấn ngọc khắc chữ thế nào, lễ trình ấn rất long trọng trước Thế miếu và dụ của vua về sự cần thiết làm Ấn Thiệu Trị.
Chuyện “Có người dâng ngọc quí” là cái cớ. Dân vẫn khai thác đá bạch ngọc ở núi Ngũ Hành Sơn huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam không quá xa, cũng không quá khó. Dụ nhà vua có đoạn: “tự cổ đế vương dấy lên, tất có phù ấn để tỏ ra chức mệnh. Vì thế các đời cùng truyền có kim bảo, có ngọc tỉ. Kim bảo để làm việc, ra cáo mệnh cho bốn phương, ngọc tỉ thì tôn kính cất đi, để truyền cho muôn đời.” Vua muốn ngụ ý ấn truyền quốc phải là ngọc tỉ, Ấn Chúa Quốc chỉ là ấn kim bảo. Cả cớ lẫn ý đều muốn giấu ý thật này: Vua Thiệu Trị không thích hai chữ Đại Việt và dòng khắc “Vĩnh Thịnh ngũ niên” (Năm Vĩnh Thịnh 5) trên Ấn Chúa Quốc khiến ấn Nhà Nguyễn như ấn Nhà Lê. Vua không thích luôn cái núm lân vờn ngọc mà138 năm trước Chúa Quốc đã chịu nhún tỏ ý phận tôi. Giờ đây nhà Lê đã mất, hà cớ gì không thay ấn có chữ Đại Nam và núm thế rồng cuộn! Vua Thiệu Trị đã rất đúng khi muốn thay Ấn Chúa Quốc bằng Ấn Thiệu Trị, trong triều ngoài cõi ai cũng đồng tình. Nhưng vua và triều thần đã quên mất Ấn Chúa Quốc là ấn thiêng. Thân dân kẻ quên người không tin ấn thiêng, chẳng ai can dán nhà vua chớ bỏ Ấn Chúa Quốc. Bỏ không phải là vứt bỏ, cả Ấn Chúa Quốc và Ấn Thiệu Trị vẫn còn nguyên cho đến năm 1945 (Hiện vẫn còn nguyên ở Bảo tàng quốc gia), chỉ huỷ bỏ tính truyền quốc của Ấn Chúa Quốc, thay vào cho Ấn Thiệu Trị. Kể từ tháng 7 năm 1847, Nhà Nguyễn có một ấn truyền quốc là Ấn Thiệu Trị. Ngọc tỉ này được đóng lên các chiếu chỉ gửi cho các nước phiên thuộc và thần dân. Nó được công nhận là “Ngọc tỉ truyền quốc của Đại Nam”.
Tháng 7 thay ấn truyền quốc, tháng 8 vua Thiệu Trị đổ bệnh, tháng 9 băng hà. Vua Tự Đức nối ngôi, nối luôn cả triều đại thảm hoạ. Chiến tranh Pháp – Đại Nam bùng nổ. Từ 1.9.1858 Đà Nẵng thất thủ đến 5.7.1885 Kinh Đô thất thủ, quan quân Nhà Nguyễn đánh đâu thua đấy. Toàn bộ lãnh thổ Đại Nam bị Pháp chiếm đóng và thiết lập chế độ cai trị thực dân, khởi đầu thời kỳ Pháp thuộc kéo dài đến giữa thế kỷ 20. Rõ Ân Thiệu Trị là cái ấn có huông, đau thay!
Trở lại ấn Hoàng Đế Chi Bảo. Từ năm khắc ấn 1823 có ba lần vua Minh Mạng ra dụ về việc dùng ấn. Lần cuối năm 1836 là năm ấn Hoàng Đế Chi Tỉ khắc xong, Thực lục (và cả Hội điển) chép: “Trước đây, phàm gặp việc cho đại xá, hoặc đàm ân, cáo dụ các bậc thân huân, huấn dụ quan lại khi đi tuần thú xem xét địa phương, ban sắc thư cho ngoại quốc, đều đóng ấn Hoàng Đế Chi Bảo; đến đây mới đổi: phàm gặp khi đổi niên hiệu, ban đại xá, đại khánh đàm ân, thì đóng ấn ngọc tỉ, còn các việc từ cáo dụ thân huân trở xuống vẫn đóng ấn kim bảo”. Theo đó thì biết ấn Hoàng Đế Chi Bảo dù rất quan trọng vẫn là ấn ngự dụng, năm 1836 bị đẩy xuống hàng thứ yếu, sau ấn Hoàng Đế Chi Tỉ.
Vậy mà tháng 8 năm 1945 vua Bảo Đại đã bỏ qua ấn truyền quốc của nước Đại Nam là Ấn Thiệu Trị, chọn ấn Hoàng Đế Chi Bảo để “ bàn giao” cho đại diện Chính phủ lâm thời của Việt Minh, khiến tác giả Từ điển Nhà Nguyễn băn khoăn: “Không thể nói rằng vua Bảo Đại không biết, vì vua lên ngôi từ năm 1926.” Tôi nghĩ vua Bảo Đại 19 năm ở ngồi, sao mà không biết. Sở dĩ ngài bất kể ấn truyền quốc, quả quyết không chọn Ấn Thiệu Trị, vì đó là cái ấn có huông.
Nếu đúng vậy thì vua Bảo Đại cũng có lòng với nước Nam ta. May thay.
…………………….
1. Đại Nam Thực lục và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.
2.Từ Điển Nhà Nguyễn, tác giả: Võ Hương An, sách dày đúng 1000 trang, khổ 18 x27. Nxb Tổng hợp Tp HCM năm 2020
3.Sử xưa không thấy sách nào chép ấn trấn thủ của Nguyễn Hoàng có tên này, để tiện gọi xin mượn tạm tên ấn trong bài Chiếc ấn vàng truyền quốc của triều Nguyễn của Hoàng Phương (VnExpress 28.1.2017)
4. Tích nước Tàu, Lạn Tương Như dùng mưu lấy ngọc nước Triệu từ nhà Tần đưa về cho nhà Triệu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét