KCVR 13: CON CHÓ CỦA BÀ MAI



Không phải ba tin ông có thể làm được cái điếu cày trong vòng mười lăm phút, cũng không phải ba tin nếu làm được điếu cày trong vòng mười lăm phút ông sẽ được đồng chí Đội trưởng tha bổng. Tha sao được mà tha. Tính mạng của ba gắn bó không rời với tính mạng Đội trưởng, ông được sống tất đồng chí phải chết, không chết cũng tàn đời. Ấy là đồng chí Đội trưởng tin vậy. Không đời nào đồng chí tin nếu được tha bổng ba sẽ đội ơn đồng chí suốt đời.

Đồng chí Đội trưởng đâu biết ba là người không biết trả thù, không có khả năng trả thù. Ba đủ phẩm hạnh đi theo nhà Phật chứ không đủ bản lĩnh đi theo Cách mạng, nơi luôn luôn coi hạnh phúc là đấu tranh. Sai lầm là chỗ đó, ba suốt đời khốn nạn chưa có lấy một ngày hạnh phúc là chỗ đó. Ba đủ thông minh để biết người ta đang nghĩ gì về ông và sẽ xử ông ra sao, lại không đủ bản lĩnh để tính đường đối phó. Cách đối phó duy nhất của ba là chui vào thuyết vô vi để ẩn nấp, dù ông biết thừa Lão Tử chưa bao giờ nói vô vi có nghĩa là không làm gì. Tuy vậy ba không đần độn đến nỗi ngồi bó tay chờ chết, thuyết vô vi còn một lối rẽ để cho ông tự cứu lấy mình.

Ba tin đồng chí Đội trưởng nghĩ thế này: Lúc này đây Phạm Vũ đã mất hết quần chúng, có nói gì cũng chẳng ai tin. Một khi Phạm Vũ đã được tha bổng trước sau ông cũng có quần chúng trong tay. Thứ quần chúng chỉ biết hỉ nộ ái ố theo chỉ thị lúc nào cũng có sẵn, ở đâu cũng có sẵn. Bất kì ai ở trường hợp như ba cũng thừa sức đưa đồng chí Đội trưởng vào vòng lao lý, đang khi tội hủ hóa là một tội tày đình. Chuyện này không ai nói đồng chí Đội trưởng cũng biết thừa, mấy chục năm được giáo dục việc xác định kẻ thù đồng chí chẳng lạ gì. Không xác định được kẻ thù là không biết làm Cách mạng không nên làm Cách mạng, bài học đầu tiên từ ngày đồng chí cầm dao phay theo Thủ trưởng lên núi Đá Mài. Ý thức xác định kẻ thù lâu ngày trở thành một kĩ năng sống giúp đồng chí trừ gian diệt ác thành công, thành công luôn cả việc hạ thủ những ai có nguy cơ gây hại cho mình.

Khi đồng chí Đội trưởng đã xác định xong kẻ thù, tức xác định xong vấn đề có mày không tao, chỉ có trời may ra có thể cứu mạng. Ba biết chắc như vậy. Hơn một giờ gập mặt giữa sân đình ba chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Trốn! Trốn có thể sống, không trốn chắc chắn chết, thế thì tại sao không trốn? Chỉ có cách bỏ chạy mới hòng thoát thân, dù tỉ lệ thoát thân chỉ chiếm một phần nghìn. Chạy đi đâu, chạy bằng cách nào? Không biết. Nhưng phải bỏ chạy, biệt tích trong vòng một năm, hoặc hai năm hoặc lâu lâu hơn nữa, nhất định có ngày đồng chí Đội trưởng biến mất và ba sẽ được trở về với vợ con, với quê hương bản quán.

Chợt hiện ra trong ba con đường đến đỉnh Đá Mài. Mười lăm năm trước ông đã lần mò đến đấy để gặp gỡ và đi theo những người cùng chí hướng. Nơi ấy bây giờ không còn ai, tất cả đã xuống núi. Ba vẫn nhớ hang đá rộng chừng năm chục mét, gọi là hang treo, nơi hẹn hò bí mật của ông và bà Mai. Hang treo nằm giữa lưng chừng đỉnh Chóp Chài có năm lối thoát bí mật chỉ có ông và bà Mai mới biết, có nơi để tắm rửa vệ sinh, có lối mò vào rừng kiếm ăn, có chỗ nấu nướng không có khói, sống được lâu dài ở đấy. Đặc biệt cái hầm bí mật dưới tảng đá lớn phẳng lì, chỉ cần trườn qua khe hở hẹp là tụt xuống cái hầm rộng rinh rang, từ đó có lối nhỏ đi ra sông Đăk So chảy về đất Lào. Thật tuyệt vời, không nơi ẩn nấp nào tốt hơn.
Sau tiếng dạ reo vang giữa mưa to gió lớn của ba, bốn sợi dây thừng được tháo tung. Không kịp nói lời chia tay với vợ con, ông chạy vụt đi, hướng bụi tre ngà cuối xóm Lù mà lao tới. Đó là nơi ba hay tới để chọn ống điếu, ba phải tỏ cho đồng chí Đội trưởng biết ông đang chạy về đâu. Ông chạy nhanh đến nỗi đồng chí Đội trưởng không kịp nghĩ phải cắt cử người đi theo. Trời đã giúp ba gây nên cơn nghiện thuốc lào điên cuồng khiến Đội trưởng lú lấp mất cảnh giác.

Phép tính của ba nảy ra nhanh như chớp: mất chín phút ông tới được bụi tre ngà làng Lù, sáu phút vượt qua bãi phi lao cằn sau làng Lù, chạy cật lực mất mười một phút mới tới làng Ó. Lúc này đồng chí Đội trưởng bắt đầu khả nghi, cho người đi tìm. Thời gian kể từ khi đồng chí Đội trưởng khả nghi sai người đi tìm, người đi tìm trở về báo không tìm thấy, lại sai người đi tìm một lần nữa, lại trở về báo không tìm thấy, đồng chí quyết định huy động một ngàn hai trăm quần chúng càn quét khắp Thị trấn. Khi biết chắc chắn ba đã bỏ trốn, đồng chí Đội trưởng huy động khẩn cấp trung đội dân quân đuổi theo...

Ba tính chính xác toàn bộ những việc đó nhanh lắm cũng phải mất một giờ. Khi đó ông đã vượt qua bàu sen làng Ó chạy về rừng trâm bầu làng Tháp. Phải trốn ở đấy đợi đến tối mới lội qua cánh đồng trống làng Ná tìm đến làng Bùng. Từ làng Bùng về Đá Mài chừng hơn hai chục cây số đường rừng, ba có lối đi riêng người Thị trấn không ai biết. Đến đây sự sống của ba có thể cầm chắc đến chín chục phần trăm.

*

Ba chạy về làng Tháp trong khát vọng sống mỗi lúc một rực lên. Chui qua làng Lù, ba phải vượt qua bãi phi lao cằn sau làng Lù. Bãi phi lao chỉ hơn nửa cây số thôi nhưng cực kì nguy hiểm. Đấy là nơi dân làng Lù cứ đau bụng thì xách quần ra đấy, trai gái trong làng mót nhau cũng chạy ra đấy tụt quần. Ba hồi hộp chạy băng qua bãi phi lao, lạy Trời khấn Phật không ai trông thấy. Băng băng qua bãi phi lao, các nhành cây phi lao nhỏ quất phía dưới đập phía trên lật phật rần rật như có cả đoàn người đang quất ngừa truy phong đuổi bắt sát ngay sau gáy, sợ đến xâm xoàng mặt mũi.

Rồi. Đã qua bãi phi lao. Ba chạy thục mạng trên trảng cát có hằng hà sa số những bụi cây lúp xúp, vượt qua làng Ố khá dễ dàng không một ai phát hiện, hay ít ra ông cũng có cảm tưởng không bị ai phát hiện.Cách rừng trâm bầu làng Tháp không đầy hai cây số, ba dừng lại. Ông đứng trên một đụn cát cao, nhìn về phía sau. Không có ai đuổi theo. Gương mặt đầm đìa mồ hôi nhem nhuốc đất cát của ba nở một nụ cười mãn nguyện và tắt ngay lập tức khi ông nhớ ra đây là thời điểm đồng chí Đội trưởng huy động trung đội dân quân khẩn cấp đuổi theo ông, chắc chắn họ được lệnh đuổi theo tiêu diệt chứ không phải đuổi theo bắt sống.

Lại chạy. Ba chạy về rừng trâm bầu làng Tháp. Quãng đường này rất nguy hiểm, dân làng Tháp, làng Bươu, làng Hống đi chợ Kô Long phải vượt qua trảng cát này. Bất cứ ai trông thấy một kẻ hớt hải chạy sấp ngửa trên trảng cát, vừa chạy vừa ngoái lại, đều biết kẻ đó đang chạy trốn. Cuộc cách mạng long trời lở đất bùng nổ, thắng lợi dễ thấy nhất là trộm cắp cướp giật đĩ điếm biến mất tiêu, sạch bách dưới bầu trời Cách mạng. Công dân của một nước tự do tất nhiên phải đi đứng thong dong, kẻ chạy trốn tất nhiên là bọn phản động lũ Việt gian, không ai khác. Người ta sẽ xông đến chụp cổ ngay lập tức, cơ hội vàng cho họ được báo công. Trong cuộc cách mạng long trời lở đất này, báo công là niềm vinh dự lớn lao cho những ai là bần cố nông suốt đời chưa biết thế nào là vinh dự. Sẽ không một ai có thể trốn thoát một khi bị niềm vinh dự ấy tấn công.

Chỉ còn vài trăm mét nữa là đến bìa rừng trâm bầu làng Tháp, ba cố rướn lên nhưng không thể. Một ngày bỏ ăn một đêm thức trắng, bây giờ phải chạy sáu cây số cát ba đã hoàn toàn kiệt sức. Bước hụt xuống hố cát nhỏ, ông rơi sấp xuống lịm dần đi. Phút sau ba hoảng hốt bừng tỉnh. Nhanh, thật nhanh, nếu không trung đội dân quân sẽ đuổi kịp. Ông chạy, lại bước hụt xuống hố cát nhỏ, lại rơi sấp xuống. Lần này ba không thể đứng lên, gắng gượng mấy lần đều không thể. Ba nghiến răng bò, ông nghiến răng ra sức dấn lên từng mét một. Ba không nhìn thấy gì, không biết mình bò được bao nhiêu cho đến khi rơi xuống hố cát rất lớn và bất ngờ chạm phải dòng nước mát lạnh.

Nước đã làm ba hồi sức. Nằm tùm hum vục mặt xuống hố nước uống một hơi dài, thêm một hơi dài nữa ông tỉnh hẳn, mắt sáng dần ra. Rũ sạch đám sương mù trong đáy mắt, ba giật mình thấy một cái bóng đen dưới hố nước. Ai đó đang ngồi trên miệng hố? Ba co cứng lạnh ngắt, lưỡi tụt sâu vào cuống họng, nước tiểu phụt ra ướt sũng cả đũng quần. Ba không dám ngước lên, ông ngồi im chờ đợi một tiếng thét, lạ thay vẫn không có ai lên tiếng. Ông từ từ nhìn lên miệng hố. Con Ba Đốm! Thì ra là nó.

Con chó đen to lớn của bà Mai, đang mở to mắt nhìn ba, cái nhìn ướt sũng nước. Ông nhớ nó phần vì nó có ba đốm lông trắng phau ở lưng ở ức và ở trán, phần vì đôi mắt to lớn dị thường của nó với cái nhìn ướt sũng nước. Nó là chú lính gác trung thành và cẩn mật cho các trận tình của ba với bà Mai trên trảng cát, bên bờ sông, trong rừng trâm bầu... cả những lần bất chợt ở góc đường hẻm phố nhà kho. Bất cứ nơi nào ba cao hứng với bà Mai, con Ba Đốm đều sẵn sàng làm chú lính gác không chút lơ là.

Tại sao con Ba Đốm lại tìm ba, bà Mai ở đâu sao không thấy? Ngày thường nó luôn quấn quít bên bà, cả khi bà đi xia nó cũng không rời. Nó ngồi thè lè lưỡi nhìn bà đang ngồi chồm hổm sau bụi cây, bà đi xong là hồ hởi xông tới chén ngon lành, phần thưởng vua ban chắc cũng không ngon đến thế. Đôi khi ba lởn vởn chút nghi ngờ quan hệ của bà Mai với con Ba Đốm. Nó to lớn và sexy, bà Mai quá tuổi ba mươi vẫn chưa có chồng. Thế rồi ba thấy không có gì bất thường, con chó vẫn là con chó, nó tận tụy canh gác cho các trận tình của hai người và hân hoan chén cứt bà chủ, ngoài ra không có ý gì khác.

Ba Đốm là con chó trung thành và ngưỡng mộ bà chủ, ngưỡng mộ luôn người đàn ông duy nhất trên bụng bà là ba. Một lần đang ở trên bụng bà Mai, ba bắt gặp cái nhìn ướt nước của nó. Không hề khó chịu hay ghen ghét, đó là cái nhìn chứa chan hạnh phúc. Con Ba Đốm hạnh phúc khi thấy bà chủ của nó đang hạnh phúc. Xong trận tình nó còn tiến tới kính cẩn hồ hởi liếm chân ba, ngôn ngữ biết ơn của con Ba Đốm. Trước nay ba chưa hề thấy con chó nào như nó.

Con Ba Đốm vẫn ngồi trên miệng hố nhìn ba, đôi mắt ướt nước của nó như muốn nói một điều gì. Quá mệt mỏi lo sợ ba không quan tâm vì sao nó tìm ông và bà chủ của nó đang ở đâu. Nó muốn nói điều gì ông cũng không quan tâm. Ông sợ nếu nó cứ bám theo thế này trước sau cũng bị lộ. Ba bò lên miệng hố ra hiệu cho con Ba Đốm chạy đi. Nó mở to mắt nhìn ông chừng như không hiểu. Ba Đốm đi đi!... Ba tay chỉ miệng quát. Đi khỏi đây ngay, đừng bám theo tau! Ba lảo đảo bước đi, ngoảnh lại vẫn thấy nó ngồi nhìn theo chứ không chạy đuổi theo, mừng quá ông ù té chạy.

Đến gần bìa rừng trâm bầu làng Pháp, chỉ cần chục bước nữa là chui được vào rừng bỗng có tiếng súng vang lên. Ba giật nẩy, mồ hôi lạnh tóa ra, bủn rủn cả chân tay. Ông quị xuống, bên tai ông vẫn văng vẳng lời thúc giục, “chạy đi!... Chạy nhanh lên!... đồng chí Đội trưởng sắp đến rồi!” Ba gượng đứng lên, hai tay chống mạnh đạp chân lên, ông đổ nghiêng vật ngửa. Bao nhiêu đóm đóm tóa ra làm lóa mắt ông, dần biến thành nước mắt chảy dàn dụa trên mặt ông.

Ba rán mở mắt, mắt ông như bị keo dán không sao có thể chống lên. Mắt không mở được nhưng ông lại thấy chị Hiên đang xoạc chân qua mặt ông, vung tay hô muôn năm và đả đảo. Đôi chân chữ bát của đồng chí Đội trưởng lượn vòng quanh. “Chạy đi!... Chạy nhanh lên!... đồng chí Đội trưởng sắp đến rồi!” Ba tôi ngóc đầu lên, không được. Ráng ngóc đầu lên lần nữa, nữa, nữa…. Được rồi! Ba vọt lên phía trước và chúi đầu đâm xuống cát, vật ngửa. Mồ hôi mặn chảy vào mồm. Cát nữa, cát mặn chạy vào mồm. Ba khạc cát ra, khạc, khạc nữa, khạc mạnh. Tiếng điếu cày vỡ tan. Láo!... Bắn thằng ni trước! Khơ khơ khơ. Tiếng cười rền vang tính giai cấp của đồng chí Đội trưởng.

Khô-ông! Mạ gào to. Khô- ông!... Khô- ông!....Khô- ông!...Đàn con của ba thi nhau gào thét. Đả đảo tên tiểu tư sản phản động Phạm Vũ!...Đả đảo tên Việt gian phản động Phạm Vũ!... Đả đảo tên gián điệp Quốc Dân Đảng Phạm Vũ!...Tiếng sục sôi căm thù của một ngàn quần chúng. Và hát. Một ngàn hai trăm quân chúng nơi đình làng hát vang. Một vạn hai ngàn dân Kô Long hát vang. Bốn phương tám hương đều hát. Khắp đất trời rền vang bài ca 19 tháng 8.

Toàn dân Việt Nam đứng đều lên góp sức một ngày
Thề đem xương máu quyết lòng chiến đấu cho tương lai
Mười chín tháng Tám khi quốc dân căm hờn kêu thét
Tiến lên cùng hô: “mau diệt tan hết quân thù chung!”

Chạy! Ba hét lên và lịm dần đi trong tiếng hát rên vang cả đất trời. Bài hát quen thuộc của Xuân Oanh làm sao ba không nhớ, ông còn tập cho dân Thị trấn hát nữa kia mà. Một vạn hai ngàn dân Thị trấn hát theo ông, vô cùng hoành tráng. Ba lẩm nhẩm hát. Ông hát được rồi, ông hát to, hát rất to, dường ông đang rống lên.

Mười chín tháng Tám.
Ánh sao tự do đưa tới.
Cờ bay nơi nơi, muôn ánh sao vàng.
Máu pha tươi hồng trên lá cờ bay khắp chốn giang sơn.

Kỳ lạ, tiếng hát của ba vừa chui ra cổ họng lại chui vào cuống phổi. Ông không nghe được lời ông hát, cố mấy cũng không nghe được. Ba chìm sâu trong những mộng mị đen ngòm.

*

Chập chờn trong giấc mơ mệt nhọc của ba, dưới hố nước ông vừa rơi xuống, người đàn bà đẹp nhất chiến khu Đá Mài đang khỏa thân bơi vòng quanh, thỉnh thoảng vẫy tay gọi ông. Bà không nói gì hết chỉ vẫy tay, bộ ngực tròn căng nhô khỏi mặt nước như mời gọi.

Bốn chục mối tình nửa nắng của ba người tình nào cũng đẹp, bà Mai là người tình đẹp nhất, cũng là người yêu ông nhất. Nhưng ba không yêu bà, không một mảy may, ông chỉ thích vậy thôi. Khi bà ở trong vòng tay, mùi đàn bà sực nức bốc lên, ba điên cuồng vùi dập bà hết trận này đến trận khác. Xong rồi thôi, ít khi ông quan tâm đến bà, nhớ nhung chỉ có trên đầu lưỡi, yêu thương da diết lại càng không. Bà Mai biết ba đã có vợ. Đêm đầu tiên ngủ với ông trong hang treo đỉnh Đá Mài năm 1947, bà đã nghe ông kể về vợ ông và bốn đứa con hai trai hai gái. Ba không giấu giếm chuyện vợ con với bốn chục người tình nửa nắng, ông chơi bài ngửa và không hứa hẹn với ai một điều gì. Với ba tình là thương nhau và sexy và chấm hết. Ai ra giá với ông người đó trước sau cũng bị loại khỏi cuộc chơi.

Một lần bà Mai ôm ông. Em làm vợ hai anh có được không? Bà thì thầm. Ba tôi hôn nhẹ bà vỗ về. Em phải có chồng, phải có chồng Mai nha!...Lời vỗ về cũng là lời kết thúc, kể từ đó ba chấm dứt luôn những hẹn hò. Ông tắc lưỡi cho qua, phớt lờ những lời bà nhắn gửi vu vơ với ai đó, những lá thư bà viết đầy lỗi chính tả, cả những lần bà bất ngờ đứng chắn ông ngang đường, ném cái nhìn hờn dỗi rồi quay ngoắt đi, đôi bờ vai rung lên sau mỗi lần nấc nghẹn. Không là không, trong tình trường chữ không của ba được đổ bê tong, jamais et jamais... không bao giờ và không bao giờ!

Từ khi rời Chiến khu theo các tiểu đoàn chủ lực về xuôi nhổ đồn bốt Tây, hai người thất lạc nhau chừng dăm năm. Ít lâu sau chuẩn bị cho giải phòng Kô Long ba được phân công rời quân chủ lực về phụ trách Thị trấn. Ba không biết bà Mai đi đâu, ông không mấy quan tâm việc bà đi đâu làm gì. Nghe nói y tá Mai lại được điều lên làm bác sĩ riêng của Thủ trưởng. Người đẹp chiến khu được Thủ trưởng trưng dụng cũng là lẽ thường tình, ông là Thủ trưởng tất nhiên ông cũng trưng dụng. Ba không thấy xót xa gì, ông còn mừng cho bà, được Thủ trưởng rủ lòng thương còn gì bằng.

Năm 1950 ba theo tiểu đoàn chủ lực về nhổ ba đồn tây, giải phóng Thị trấn Kô Long. Đêm tối mù mịt, ba dẫn tiểu đội trinh sát lên sát hàng rào đồn tây phía nam Kô Long rồi bò quay lui. Cỏ may ngập lút người mắc vào áo quần dày đặc, đâm vào dai thịt ngứa ngáy khó chịu. Bò qua đê, ba tụt xuống chân đê cởi hết áo quần gỡ cỏ may. Một làn hơi nhẹ phả bên tai ông ấm nồng nồng nàn. Đó là bà Mai. Ôi Mai! Ba mừng rỡ ôm chầm lấy bà. Sực nhớ bà Mai bây giờ là người của Thủ trưởng ông vội vã rời bà, nghiêm ngắn ngồi nhổ cỏ may. Em ở trong đội cứu thương. Bà Mai nói. Thế à? Ba nói. Em tìm anh muốn chết luôn. Thế à? Sao lại thế à? Mừng cho em được Thủ trưởng rủ lòng thương. Lập tức ba bị bà Mai cho một cái tát lật mặt. Bà nằm vật ra cỏ khóc nghẹn. Con Mai này đi làm cách mạng chứ không phải đi bán bướm!

Ba ôm lấy bà Mai cười chữa thẹn. Anh đùa đấy mà. Tay vuốt tay xoa ba giở giọng nịnh đầm. Anh cũng nhớ em lắm. Bà Mai ngẩng phắt lên. Nhớ thiệt không? Thiệt! Ba hôn nhẹ lên tóc bà. Anh yêu em lắm lắm. Ông nức nở giọng cò giả. Bà Mai thừa biết đó là giọng cò giả nhưng bà không cần, chỉ cần ba nói ra mồm ba tiếng anh yêu em. Bà ôm lấy ba nức nở thì thầm. Chỉ cần anh yêu em, ngoài ra em không đòi hỏi gì hết, không bao giờ em đòi hỏi, em thề. Ba cảm động. Nguyên tắc jamais et jamais đã bị phá bỏ, ba tiếp tục ngủ với bà. Chả phải yêu đương gì, đơn giản ông chỉ ngủ với bà thôi. Bờ đê nửa đêm về sáng mát lạnh gió sông, trận tình đầm nước mắt và sương đêm không chê vào đâu được. Kệ mẹ jamais et jamais, ba hí húi đâm và đâm.

Bà Mai khóc thét, tiếng khóc hân hoan cảm khoái giữa đêm khuya tưởng chừng cả vùng Kô Long đều nghe thấy, may thay nó lọt thỏm giữa tiếng súng công đồn. Bà lịm đi trong mê mệt hạnh phúc. Được yêu và được thỏa mãn khi yêu, bà chỉ cần có thế. Bà không hình dung được người ta không yêu nhau lại có thể ngủ với nhau. Nhiều lần Thủ trưởng đã quì mọp dưới chân bà xin bà cởi dây rút, không là không, chữ không của bà cũng được đổ bê tông. Bà bỏ đơn vị về làng Bươu để bảo toàn cái chữ không ấy và để được gần gũi ba hơn. Từ làng Bươu về Thị trấn Kô Long chưa đầy chục cây số. Ba không biết chuyện này, ông tưởng bà cũng được giải ngũ về địa phương giống như ông. Nếu biết, ông đã khuyên bà quay lại đơn vị ngay lập tức. Không thể nghĩ đơn giản mình tự nguyện theo cách mạng, không muốn theo nữa thì về. Cách mạng không phải trò chơi của con nít.

Ba không biết lý do về làng Bươu của bà Mai, ông không quan tâm thì đúng hơn. Nhiều lần rên xiết trong vòng tay ông, được ông làm cho sướng điên lên, bà lại ôm ông rỉ rả khóc. Ba ngờ ngợ có chuyện gì đó. Đã có giao hẹn với ba rồi, bà không dám kể cho ông nghe nhiều lần Thủ trưởng cho người về làng Bươu thông báo cho bà hay, bà phải quay lại đơn vị ngay, nếu không thì... Ba chữ “nếu không thì” đã làm bà mất ngủ nhiều đêm. Bà không sợ việc phải quay lại đơn vị, thậm chí bà rất muốn, nhưng bà biết nếu quay lại đơn vị trước sau gì bà cũng bị điều lên làm bác sĩ riêng cho Thủ trưởng.

Trước khi ba bị bắt một tuần, ông có gặp bà Mai ở đình chợ Kô Long. Đàn bà ở các xã quanh đây đi chợ phiên ngoài việc mua bán là đi tìm những gã đàn ông bội tình “bỏ của chạy lấy người” như ba. Bà Mai cũng vậy, bà luôn luôn về Thị trấn đúng phiên chợ, chả phải mua bán gì, chỉ để tìm gặp ba. Thường khi ba không bén mảng ở các phiên chợ, ông sợ gặp những người tình nửa nắng của ông trong đó có bà Mai. Chả hiểu thế nào hôm đó ba lại ra chợ và bị bà Mai túm được ông. Bà hớt hải kéo ba ra góc khuất sau đình chợ ôm chặt lấy ông. Em phải làm vợ hai Thủ trưởng, nếu không thì... Bà lập bập nói. Chưa kịp nói hết lời bà đã bỏ chạy. Bà sợ ba mắng cho, rằng đó là việc riêng của em tại sao lại hỏi anh? Rằng lời hứa của em để đâu rồi, tại sao lại cứ cố ra giá với anh như thế? Bà chạy nhanh quá ba không kịp mắng, cũng không kịp nghĩ mấy chữ “Nếu không thì” nghĩa là gì.

Thường khi gặp xong người tình nửa nắng nào ba cũng không nghỉ ngợi vẩn vơ. Đàn bà thường nói dzậy mà không phải dzậy, nghĩ ngợi thêm thức đầu, ba đóng kín cửa tình nhẹ nhàng về với vợ con. Lần này khác, khi bà Mai bỏ chạy, ngực ba cứ nóng râm ran như kẻ thiếu nước. Ba vào quán bỏ năm xu mua bát nước chè xanh. Vừa uống được vài ngụm đầu óc ba bỗng bừng sáng, ông đã hiểu ba tiếng “Nếu không thì” của Thủ trưởng. Ông ném bát nước chè ù té chạy. Đuổi kịp bà Mai, ba túm lấy tay bà. Em phải quay lại đơn vị ngay. Ông hấp tấp nói. Bà không thèm hỏi ba vì sao, bà biết ông đã hiểu ba tiếng “Nếu không thì” của thủ trưởng. Tưởng thế nào chứ phải quay lại đơn vị ngay thì bà biết thừa, chẳng cần ba phải khuyên nhủ. Ba Mai hất mặt đi, gương mặt đắng cay rực lên niềm kiêu hãnh, mặc cho ba nhiều lần sụp xuống van xin bà hãy nghe lời ông.

Giờ đây trong giấc mơ mệt mỏi của ba, dưới hố nước bà Mai đang khỏa thân bơi lội, con Ba Đốm đang ngồi canh trên miệng hố, cặp mắt ướt nước của nó đang nhìn ông, cái nhìn làm ông sực nhớ ba chữ “Nếu không thì”. Con Ba Đốm bỗng chồm tới trước mặt ông sủa vang vang, tiếng sủa giận dữ và khinh bỉ. Ba bừng tỉnh, ông đã nằm ở mép rừng trâm bầu từ lúc nào. Ông láng máng nhớ trước khi lịm đi ông còn cách mép rừng chừng chục bước. Có ai đó đã kéo ông vào dưới tán cây trâm bầu to lớn này, ai vậy ta?

*

Nắng đã tắt từ lúc nào. Một ngày đã trôi qua ba hãy còn sống, Đội trưởng vẫn chưa tóm được ông. Niềm vui làm ba khỏe hẳn, ông ngồi dậy ngó xung quanh, cố tìm hiểu xem ai đã kéo mình vào đây.
Con Ba Đốm xuất hiện, miệng nó ngậm chùm khoai sống, chắc nó vừa bới được ở đâu đó. Đoán chừng con Ba Đốm tới đây để cứu ông, ba ôm lấy cổ nó âu yếm hỏi. Mi kéo tau vô đây có phải không? Con Ba Đốm gật gật đầu xác nhận, nó đặt cả chùm khoai sống vào lòng ba rồi lùi ra ngồi nhìn ông ý như nói, ăn đi!

Ôi con chó tuyệt vời, chính nó đã ngoạm cổ áo ông lôi ông vào mép rừng và đi bới khoai sống cho ông ăn.

Ba nhai khoai sống rau ráu. Con ba Đốm cũng đói, nhìn cái lưỡi ướt sũng nước dãi của nó thì biết. Chắc nó nhịn đói, nhường phần khoai sống cho ba. Vừa ăn ba vừa vuốt ve con Ba Đốm, nó hiểu đó là ngôn ngữ biết ơn của giống người, đôi mắt ướt nước của nó rưng rưng.

Có lẽ bà Mai đã biết chuyện của ba, bà vội vã cử con Ba Đốm đi cứu ông chăng? Có thể lắm. Chủ tịch thị trấn bị bắt là chuyện không nhỏ, tin ấy đủ lan nhanh khắp ba mốt xã trong huyện, huống hồ làng Bươu chỉ cách Kô Long chừng hai quãng khăn vắt vai. Ba hơi ngượng, trong khi bà Mai tìm cách cứu ông, nhiều ngày qua không một giây phút nào ông nghĩ tới bà. Con Ba Đốm nhìn ba đau đáu, hình như nó đang chờ đợi ở ông một điều gì? Thoạt tiên ba không mấy quan tâm, sau cứ ngờ ngợ có vẻ như con Ba Đốm muốn ông làm một điều gì đó. Nhiều lần ba thấy ánh mắt chờ đợi của nó và đã hiểu ra.

Con Ba Đốm vẫn nhìn ba, cái nhìn ngày một sốt ruột và khó chịu. Đúng rồi! Tại sao không chạy về nhà bà Mai nghỉ lại đó một đêm trước khi tìm về đỉnh Đá Mài? Vụt sáng trong ba ý nghĩ ấy. Phải rồi! Phải tới đó lấy ít lương thực dự trữ và báo cho bà Mai biết ông sẽ trốn ở đâu để bà còn tiếp tế lương thực cho ông, nếu không lấy gì để mà sống?

Con Ba Đốm đoán được ý nghĩ của ba, nó nhảy lên sung sướng sủa to mấy tiếng.

*

Trời tối, ba bám đuôi con Ba Đốm vượt qua rừng trâm bầu làng Tháp về rừng trâm bầu làng Đô, lọ mọ chui qua xóm Bài, nhanh chóng lọt vào rặng tre đầu làng Bươu. Ba và con Ba Đốm không gặp ai, chỉ nghe chó sủa chứ không gặp ai. Rõ rồi. Làng xóm giờ này đang kéo nhau đi họp. Thời kì của hội họp, tối nào làng xóm cũng phải hội họp. Cách mạng đang long trời lỡ đất không làng nào to gan dám tắt đèn rủ nhau đi ngủ. Ba cầm chắc điều đó, ông yên tâm bám đuôi con Ba Đóm lọ mọ đi.

Nhà bà Mai ở đầu xóm, ba biết có lối bí mật chui vào nhà bà để không ai thấy, ông đã nhiều lần đi theo lối này rồi. Ba ra hiệu con Ba Đốm đi theo ông. Con Ba Đốm không chịu, nó đứng đầu ngõ cố tình cản ba, không cho ông vào. Một mình ba lẻn vào. Nhà bà Mai tối đen, cửa sổ cửa chính đều khép kín. Có chuyện gì chăng? Ba lập tức vọt ra khỏi nhà Bà Mai, rất có thể ông đã lọt vào ổ phục kích. Chẳng có cuộc tình nào giữ được bí mật, khi người ta không nói ra hoặc bỏ qua gọi là bí mật. Với cán bộ đảng viên như ba và Bà Mai, chưa kịp yêu đương thiên hạ đã biết tỏng, làm sao giấu được. Biết đâu đồng chí Đội trưởng biết nhà Bà Mai là một trong những nơi trú ẩn của ba, đồng chí đã đem quân ém sẵn. Tóc gáy ba dựng ngược.

Thần hồn nát thần tính, chẳng có ai. Khu vườn nhà bà Mai yên ắng lạ thường, yên ắng rờn rợn. Con Ba Đốm ngoạm ống quần ba khẽ kéo, nó muốn nói đừng ở đây nguy hiểm, hãy đi theo nó. Ba lom khom chạy theo con Ba Đốm. Chạy được một lúc thì nghe tiếng trống, chạy thêm một lúc nữa nghe tiếng hô muôn năm và đả đảo. Thôi chết rồi! Có khi bà Mai cũng bị bắt như ba, hiện đang bị xử trảm như ba, con Ba Đốm tìm ông là vì thế?

Ba quyết định theo con Ba Đốm tới đình làng Bươu, tiếng hô muôn năm và đả đảo đang rộn lên ở đó. Chỗ đông đúc ít ai để ý. Mọi cuộc xử trảm dân các làng vẫn hay tới xem, không sợ bị lộ. Đang khi đồng chí Đội trưởng đang đuổi bắt, chính đó là nơi Đội trưởng không ngờ tới.

Ba đoán không sai.. Cả một rừng đuốc sáng rực một góc làng. Bà Mai đang bị cột chặt giữa sân đình. Tim ba lạnh ngắt, mồ hôi lạnh chảy dọc xương sống. Ông không còn biết nên nhập vào đám đông hay bỏ chạy. Con Ba Đốm ngoạm ống quần ba kéo ông vào cuộc, vừa kéo vừa ngước nhìn ba. Có lẽ nó nghĩ chỉ có ba mới cứu được bà Mai. Ba không thể giải thích cho con Ba Đốm tình cảnh của ông, nể tình nó ba đành lòng theo nó.

Ba lẩn vào đám đông. Chỉ cần nghe dân làng Bươu rạo rực hô muôn năm và đả đảo, dăm ba tiếng xì xào bàn tán, ba biết ngay tội trạng của bà Mai. Bà là tên đào ngũ, là kẻ phản bội. Đã thế còn dám đỡ đẻ cho vợ một tên Việt gian bán nước. Đặc biệt nguy hiểm, bà đã để cho tên này trốn thoát trong đêm. Tội này đáng phải tru di chín họ, Đội trưởng làng Bươu thương tình chỉ xử tử mỗi mình bà. Ba rùng mình hiểu ra tội này có liên quan đến ba chữ “Nếu không thì”.

Ba nhớ như in buổi trưa phiên chợ đầu tháng. Rời khỏi chợ Kô Long, dọc đường về làng Bươu bà Ma hất mặt đi, mặc ba lẽo đẽo theo sau ra sức van xin bà. Ba biết dù chết bà Mai cũng không quay lại đơn vị, ông van xin bà hãy trốn ngay ra khỏi làng. Ba vượt lên trước bà Mai, đi giật lùi. Em phải trốn khỏi làng, trốn càng sớm càng tốt! Ba lập cập nói. Anh không cần quan tâm đến em. Bà Mai vẫn hất mặt lên. Ba chắp tay vái bà Mai. Anh lạy em Mai ơi, Trốn đi! Không làm chi được người ta mô. Ba ôm chặt lấy bà Mai giữa thanh thiên bạch nhật, điều mà ba chưa bao giờ dám làm. Buông ra! Bà Mai hét lên một tiếng rợn người. Để yên cho tôi sống! Bà Mai đẩy ba ngã ngửa, vùng vằng bỏ đi.

Ba chồm dậy, đứng sững sờ. Bất ngờ bà quay lại, ôm chầm lấy ba. Thôi anh về đi, có chi mô. Bà nói nhẹ không.Vòng tay xiết chặt nồng nàn đôi mắt thì ráo hoảnh. Bà nói một câu lạnh như băng .Tại em cả thôi, tại em là đàn bà thôi mà. Câu nói làm trời đất cảm động nhưng không cảm động được ba. Thật lạ quá, ông lấy làm thích chí. Cho là bà Mai đã quyết định trở về với Thủ trưởng, ba thở phào nhẹ nhõm như trút được một gánh nặng. Không gì vui bằng có một thằng nó rước giùm cho mình người đàn bà mà mình muốn bỏ chạy. Ngờ đâu sự thể lại thế này.

Đình làng Bươu ngót nghét ngàn người đang rạo rực hô muôn năm và đá đảo. Ba lẫn sâu phía sau đám đông. Con Ba Đốm không chịu, nó cứ ngoạm ống quần cố lôi ông ra ngoài, đôi mắt ướt nước của nó nhìn ba như cầu cứu như van xin. Sợ con Ba Đốm làm dân làng Bươu biết ông có liên quan đến bà Mai, ba bèn hất mõm nó và trốn biệt vào đám đông ở cuối sân đình. Con Ba Đốm tìm ba không ra, nó chồm lên sủa vang vang, tiếng sủa tức giận và khinh bỉ y chang tiếng sủa ba nghe được trong giấc mơ. Mọi người ồ lên. Nghe chưa Mai?... Chó mi cũng căm thù mi đó! Đội trưởng làng Bươu chỉ mặt bà Mai hả hê.

Làng Bươu xử trảm bằng chém cổ. Đội trưởng làng Bươu thích xử trảm bọn phản động bằng dao cùn chém cổ. Cứ một nhát chém là một lần hô đả đảo và muôn năm, hô đến rát họng cổ bà Mai vẫn chưa lìa. Cái cổ ba ngấn tuyệt vời kia thế quái nào lại dẻo và dai đến kì lạ. Phải mất non nửa giờ mới có thể làm đứt nó. Đầu bà Mai đã gục hẳn xuống, phế quản đã phơi ra một cái lỗ đen ngòm, máu tươi phun ngược lên trời, xối khắp cơ thể bà, chỉ còn một tí da dính phía dưới ức, người ta chém thêm vài chục nhát nữa cái đầu vẫn bám chặt không chịu rơi.

Đội trưởng làng Bươu phải nhảy ra cầm lấy hai tai bà vừa vặn vừa giật đến toát mồ hôi mới nhổ được cái đầu ra khỏi cổ. Cái cổ cao ba ngấn chỉ còn một dúm thịt đỏ lòm, xám ngoét. Đội trưởng làng Bươu ném cái đầu xuống đống rơm bò ăn, hất hàm hỏi đám đông. Bà con thấy chưa?... Rứa mới biết vì răng cách mạng gọi bọn phản động là bọn đầu bò đầu bướu. Nhất trí không bà con? Tiếng hô muôn năm và đả đảo vang rền.

Bỗng đâu con Ba Đốm rú lên một tiếng kinh hồn. Nó lao ra, nhảy lên ngoạm cổ Đội trưởng làng Bươu. Đám đông lặng phắc. Đám đông chia thành hai cái nhìn trái ngược. Cái nhìn sợ hãi, sợ Đội trưởng làng Bươu vì thế lại nổi trận lôi đình. Cái nhìn hồi hộp, không biết con Ba Đốm có ngoạm được cổ Đội trưởng làng Bươu hay không. Con ba Đốm đớp hụt, Đội trưởng làng Bươu bổ ngửa nó cũng ngã xuống theo. Cái cổ Đội trưởng làng Bươu không hề xơ xước. Bao nhiêu cái nhìn tiếc rẻ.

Các đồng chí sẵn sàng chiến đấu! Trung đội trưởng dân quân bắn đòm một phát, quát to. Thà chết chứ không để chó làm nhục đồng chí Đội trưởng của chúng ta! Chục dân quân cầm dao phay xông tới, trong phút chốc con Ba Đốm bị chém làm đôi, lại bị chém làm tư, cái đầu nó đứt lìa. Đội trưởng làng Bươu lồm cồm bò dậy mặt xanh như đít nhái. Sau phút hoàn hồn Đội trưởng làng Bươu cầm cái đầu chó lên cười sặc . À ha, tau tưởng mi căm thù con gián điệp, té ra chủ nào chó nấy! Đội trưởng làng Bươu nghiến răng ném cái đầu chó ra xa, nó rơi đúng dưới chân ba, dân làng Bươu đang mải rạo rực hô muôn năm và đả đảo không ai biết.

Vào khi dân làng Bươu đang rạo rực hô muôn năm và đả đảo, ba cúi nhìn cái đầu con Ba Đốm. Đôi mắt nó mở trừng trừng. Nó đang nhìn ba. Con Ba Đốm đang nhìn ba. Con chó đang nhìn ba tôi, cái nhìn trừng trừng cái nhìn khô khốc, giận dữ và khinh bỉ.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét