KCVR 25: VÀ HẾT



Bốn chục năm sau tôi gặp lại con Lu, không phải ở trong các giấc chiêm bao mà ngay trong nhà cô giáo dạy xác suất của tôi. Tôi vốn ghét những ngẫu nhiên trớ trêu nhưng không tránh được, trời bắt phải thế chẳng biết làm thế nào.

Con Lu chết ngày 1 tháng 6 năm 1960. Tôi không bịa tạc gán ghép ngày quốc tế thiếu nhi với ngày chết một con chó làm gì, chỉ vì khi chôn xong cái đầu con Lu, bà Phó văn phòng Ủy ban tỉnh đi tìm tôi, cho tôi gói bánh kẹo nhân ngày quốc tế thiếu nhi. Phần của con Lu nữa đó. Bà nói thêm. Bà không biết con Lu đã chết, tôi cũng không buồn nói cho bà hay. Ba chôn cái đầu con Lu ở góc sau khu Ủy ban tỉnh, ông làm nấm mộ nhỏ như cái mũ cối, cắm lên đó một thẻ nhang. Tôi ôm gói kẹo tới nấm mộ, bóc gói kẹo ra. Ăn đi mày, kẹo mồng 1 tháng 6 đó. Tôi nói và nghe như con Lu nói ừ. Tôi ngồi bệt ăn kẹo, tưởng tượng cùng ăn kẹo với con Lu. Tôi nhai kẹo, nhai luôn nước mắt khóc thương nó.

Ngày nào tôi cũng ra mộ con Lu cắm một thẻ thang, đặt một cái kẹo. Sau hết kẹo chỉ cắm thẻ nhang thôi. Tháng sau thi thoảng tôi mới ra thăm mộ, chỉ thăm mộ thôi không thắp hương. Năm sau tôi không hề lai vãng tới mộ đó nữa, thêm vài năm nữa tôi vẫn nhớ con Lu nhưng mộ nó thì quên mất. Bốn chục năm sau, khi con gái út tôi bằng tuổi tôi lúc con Lu chết tôi chẳng hề nhớ gì con Lu nữa. Tôi đã nuôi bảy con chó, cả bảy con đều chết với các lý do khác nhau, con nào chết xong tôi cũng thương xót vài ngày nhiều lắm là một tuần, rồi cũng quên, giá có gặp lại tôi cũng chẳng nhớ. Tưởng đến lượt con Lu chắc cũng thế, ngờ đâu tôi và con Lu gặp lại nhau.

Hà Nội một ngày đẹp giời năm 2000 tại hồ Ha Le tôi gặp cô giáo xác suất của tôi.

Lâu nay vẫn biết cô vẫn dạy toán xác suất ở trường cũ, vẫn ở một mình ở khu chung cư cũ nhưng tôi không muốn gặp. Riêng chuyện đàn bà tôi mang gen bội bạc của ba. Kể từ buổi tối ngày 30 tháng 4 năm 1975 tới nay chẵn hai lăm năm tôi cố tình không gặp cô nữa. Chuyện tôi với cô tối hôm đó nó là cái gì chứ không phải là tình, cả cô và tôi chẳng được gì cũng chẳng mất gì. Thế là xong, vướng víu làm gì mất thời giờ. Thỉnh thoảng vẫn nghe bạn bè cùng lớp nói, cô vẫn nhớ mày lắm đấy! Tôi vẫn tắc lưỡi cho qua. Giờ gặp nhau đây cô luống cuống như gái tơ gặp bồ cũ, mặt mày đỏ lựng, vừa nói xong Quang đi đâu đấy lại nói Quang đi đấy... lúng ta lúng túng.

Cô nhất định kéo tôi về nhà cho bằng được. Nhà cô vẫn là căn hộ cũ được cơi nới ra hơn bốn chục m2, một căn hộ khép kín, mình cô ở quá rộng rãi. Cô đãi tôi món thịt heo quay, nồi miến lòng gà và chai rượu cam, ý chừng nhắc lại kỉ niệm tối 30 tháng 4 hai lăm năm về trước.

Tôi không hề có một cảm xúc gì, khi cô cúi xuống nhấc cái lồng bàn tôi không còn thấy gáy Ái Vân đâu nữa, trước mắt tôi là cái gáy khô gầy nhợt nhạt của người đàn bà ở tuổi mãn kinh. Đợi mãi không thấy giây phút hai lăm năm trước lặp lại cô ngồi xuống bẽ bàng, nụ cười gượng gạo. Có vẻ như cô đợi tôi hỏi vì sao cô không lấy chồng để cô làm tôi phải cảm động. Tôi không hỏi, tôi ghét hỏi đàn bà những chuyện riêng tư. Cô có vẻ buồn.

Tôi vào mâm, gắng nốc vài ly rượu cam, nhấm nháp món rượu sang trọng ngày xưa giờ như một cực hình, nó ngọt đến phát kinh. Tôi làm như rượu ngon lắm, cố moi ra vài câu hài hước mua vui cho cuộc rượu nhạt nhẽo này. Quang đẹp trai thật đấy. Cô cười bẽn lẽn nói đi nói lại. Chẳng ngu gì tôi không hiểu ý cô, tôi cứ lờ đi coi như không nghe thấy. Một con chó từ đâu chạy vào phòng khách, lăng xăng quanh mâm, nó có vẻ mừng rỡ khi thấy tôi. Mi Na, đi ra ngoài. Mẹ có khách! Cô quát đuổi con chó hai, ba lần.

Con chó không đi, nó chui xuống gầm bàn ăn ngẩng mặt nhìn tôi như nói, ê...nhớ không? Quên rồi à! Tôi thấy ngờ ngợ không biết gặp con chó này ở đâu. Tôi cúi xuống gầm bàn xem kĩ nó một lần nữa, thấy có ba xoáy trên sống lưng của nó. A, nó là giống chó Phú Quốc. Như con Lu ngày xưa, lông nâu mượt mắt nâu tươi sáng và có ba vòng xoáy thật đẹp trên sống lưng. Chắc cô giáo nhờ người ra tận Phú Quốc mang về.

Con chó ghếch mõm lên với tôi, nhớ chưa? Tôi nhìn nó cười cười, nhớ gì? Mày là Mi Na, tao không quen con chó nào tên là Mi Na cả. Nó nhìn tôi buồn buồn, kiếp này tao là Mi Na, kiếp trước tao là Lu... Tôi lặng đi. Thế ra con Lu đã tái sinh. Tôi không biết gì về thuyết luân hồi của nhà Phật, đọc sách Phật thấy những “nghiệp lực”, “thọ báo,” “cảnh giới”... nghe ù tai chẳng muốn tìm hiểu nữa. Tôi tưởng bánh xe luân hồi của nhà Phật to lắm, ít nhất vài trăm năm mới được tái sinh, ngờ đâu con Lu mới chết vài chục năm đã được về hạ giới, lại đầu thai đúng kiếp chó.

Tôi hỏi nó, mày là con Lu thật à? Con Lu ra mặt giận không đáp, có lẽ nó thất vọng về tôi lắm. Mới vài chục năm đã quên nhau, nó thất vọng là phải. Con Lu cứ loay hoay dưới gầm bàn như đang nghĩ cách chứng minh cho tôi nó đúng là con Lu. Rồi nó chui ra khỏi gầm bàn nhảy dựng lên về phía bàn thờ sủa mấy tiếng. Cô Giáo quát con Lu, đừng hỗn Mi Na! Tôi nhìn lên bàn thờ, ảnh truyền thần một người đàn ông chừng năm chục tuổi. Bố mình đấy. Cô giáo nói. Tôi vâng và ngước lên nhìn ngưỡng mộ, tự thấy tởm về thói đạo đức giả của tôi.

Cô kể. Hồi mới đem con Mi Na về, thấy ảnh bố mình con Mi Na nhảy lên sủa liên tục, sủa suốt ngày đêm, rất lạ. Cô cười nói hồn nhiên. Hình như kiếp trước nó với bố mình có mắc mớ chi nhau. Ở lâu ngày đâm quen con Mi Na không sủa nữa, không hiểu sao giờ nó lại sủa. Con Lu lại sủa lên mấy tiếng. Thôi,... Mi Na! Cô giáo lại quát đuổi nó đi.

Tôi để ý trên bàn thờ chỉ có ảnh bố cô giáo, tôi đoán chắc mẹ cô còn sống, ông bà già ngày nay thọ trên tám mươi tuổi không phải là ít. Mẹ cô giờ ở đâu? Tôi hỏi. Chết rồi chứ ở đâu. Cô đáp một câu lạnh tanh. Tôi lạ lùng nhìn cô, ít ai nói về mẹ mình một câu như thế. Thực ra mình không có mẹ. Chừng như đoán được tôi nghĩ gì cô nói thêm một câu nữa vẫn giọng lạnh tanh. Cô cười buồn không nói gì thêm nữa.

Nhạy cảm của nhà văn cho tôi chút thông minh đột xuất. Bố cô hy sinh ở chiến trường à? Tôi hỏi. Cô lắc đầu vẻ khó chịu, lát sau ngẩng lên bàn thờ, cái nhìn thương yêu kính cẩn. Ảnh này có trước năm 1975 đấy. Cô nói. Ngày 30 tháng 4 năm đó Quang tới đây đã có ảnh bố mình trên bàn thờ rồi. Thì ra thế, lúc đó còn loay hoay với cái háng trinh nữ của cô, tôi chẳng thấy gì khác. Cô rót ly rượu, cầm ly rượu tần ngần nhìn lên bàn thờ, Cô hắt cả ly rượu vào miệng, nuốt đánh ực cứ như uống thuốc đắng. Bố mình không chết trận. Bần thần giây lát cô nói. Bố chết ngay sân nhà, rắn lục cắn chết. Thủ trưởng! Tôi suýt kêu lên, ly rượu trong tay rơi xuống nền nhà vỡ toang.

Con Lu nhảy chồm lên sủa mấy tiếng, nó mừng vì biết tôi đã nhận ra nó. A con Lu! Đúng mày là con Lu! Tôi ôm lấy nó. Con Lu nhanh chóng chuồi ra khỏi tay tôi, nó không muốn cô giáo biết quan hệ thân thiết giữa tôi và nó. Tôi vỗ lưng nó, Lu ơi tao nhận ra mày rồi! Con Lu lùi ra không cho tôi vuốt ve trước mặt cô giáo, đôi mắt nâu của nó ướt nhòe.

*

Cuộc rượu nhạt nhẽo trở nên sinh động hơn, tôi uống rượu tì tì nghe cô giáo kể chuyện say sưa. Cô trốn khỏi nhà lúc cô bảy tuổi sau cái chết của bố cô. Từng cùng bố đi tàu hỏa ra Hà Nội nhiều lần cô cứ thế lên tàu chẳng cần hỏi ai, xuống ga Hàng Cỏ đi thẳng một mạch tới nhà chú ruột của cô không cần phải hỏi ai. Chú cô còn làm to hơn bố cô nữa, nuôi cô ăn học cho tới lúc cô trở thành cô giáo. Trong suốt câu chuyện cô không nhắc tới mẹ một lần nào, tôi cũng không nói cho cô hay tôi biết Thủ trưởng là ai là thế nào. Con Lu dưới gầm bàn gại gại chân tôi ra hiệu, cứ để cho cô kể. Tôi nghe lời con Lu.
Cô giáo tôi kể về bố cô với niềm tự hào không thể tả, với cô không ai trên đời được như bố cô. Cô không bịa đặt thêm thắt một lời nào những gì cô nghe chú cô kể về bố cô, có phần còn lược bớt đi ở những chỗ cô nghĩ nếu kể ra sẽ bị người nghe cho là thiếu khiêm tốn. Con Lu nằm dưới gầm bàn xác nhận câu chuyện của cô. Nó gại gại vào chân tôi, bảo đúng. Nó lưỡi liếm chân tôi, bảo sai. Tôi tin con Lu. Ở thế giới bên kia chắc nó đã gặp Thủ trường và các chiến hữu của ngài, duyên nghiệp cho nó tái sinh về sống với cô giáo mấy năm rồi, chuyện gì nó không biết.

Cô kể. Bố cô hồi nhỏ học giỏi lắm, giật bằng tú tài từ năm mười bảy tuổi ( con Lu liếm chân tôi), cũng năm đó bố cô tham gia cách mạng, mười chín tuổi vào đảng, hai mươi tuổi làm bí thư chi bộ, hai hai tuổi tham gia giành chính quyền ở Thị xã Ô Lệ, hai ba tuổi gia nhập bộ đội Việt Minh với chức trung đội trưởng, hai lăm tuổi về lại dân sự làm phó bí thư đảng ủy chiến khu Đá Mài, ba mươi tuổi là thủ trưởng chiến khu Đá Mài hơn ba ngàn cán bộ Việt mình, ba lăm tuổi là thủ trưởng quân khu... (con Lu gại gại chân tôi), hơn ba chục huân huy chương các loại ( con Lu gại gại chân tôi), nếu bố cô không bị rắn lục cắn chết ông có thể được phong anh hùng, ra Hà Nội làm to như chú cô, thật đấy.( Con Lu liếm chân tôi sau bỏ liếm gại gại chân tôi, nó tin cô nói thật). Tôi gật đầu chia sẻ, ai chết non đều được người thân tiếc nuối tưởng tượng ra đủ thứ “nếu như”, chẳng riêng gì cô giáo.

Cô lục tủ đưa ra cuốn nhật kí đã ố vàng cũ nát. Tôi nhìn thấy trên bìa một cuốn nhật kí có tên Lệ Hiên liền cầm lấy. A, nhật kí của chị Hiên, cái này chưa nghe ba nhắc tới. Lật dở vài mươi trang tôi bất ngờ thấy bài hát của chị Hiên. Ai đó chép nhạc cho chị thật đẹp.


Cô giáo không để ý đến cuốn nhật kí của chị Hiên, cô cứ dúi vào tay tôi cuốn nhật kí của Thủ trưởng. Cô háo hức kể. Cuốn nhật kí bố mình để lại toàn kể những gì ông đã cứu người, cứu sống trong chiến trường có, cứu sống trong chỉnh huấn chỉnh quân có, cứu sống trong cải cách ruộng đất có, mấy trăm người lận.... Cô ngước lên nhìn ảnh bố cô, ánh mắt dào dạt yêu thương, thủ thỉ tâm sự. Bố mình là người trung thực, sống chân thành với mọi người, ai cũng thương ( con Lu liếm chân tôi), ông sống giản dị lắm, cái câu cần kiệm liêm chính chí công vô tư đúng với bố mình y chóc ( con Lu liếm chân tôi). Cô cầm ly rượu xoay xoay vẻ trầm ngâm. Bố mình sống nhân từ lắm, đức độ lắm, như Phật ấy. ( con Lu liếm chân tôi, nó khịt khịt mũi chừng như muốn nói gì đó) Bố mình có chín tiếng tuyệt vời Đồng chí rất tốt, tôi tin tưởng đồng chí nổi tiếng khắp chiến khu, nhờ thế mà ai ai cũng tin yêu, ông mất đi cả chiến khu ai cũng khóc, nhiều người nằm khóc ướt cả võng dù (con Lu liếm chân tôi, nó nhe răng gằn mấy tiếng).

Con Lu liếm đi liếm lại ướt cả chân tôi. Tôi vẫn cố tạo ra vẻ háo hức nghe cô kể. Cô cứ kể tôi hết vâng lại à thế à mỏi cả miệng. Thế gian có nhiều kẻ khôn ngoan chuẩn bị hậu vận cho mình, khôn nhất là Tự Đức, khôn nhì là Chế Lan Viên, không ai khôn bằng Thủ trưởng, ngài thật cao thủ. Ngài viết nhật kí chuẩn bị hậu vận cho ngài thật chu đáo, không lừa được người đời cũng vuốt ve được con cháu, mấy ai khôn khéo được như ngài.

Con Lu không chịu nổi, nó nhảy ra khỏi gầm bàn sủa vang vang. Tôi hiểu con Lu đang chửi cô và chửi tôi. Nó chửi cô bịa đặt trắng trợn bịa đặt tởm lợm bịa đặt trâng tráo. Nó chửi tôi ngu, người ta nói vậy mà cũng tin. Tôi nhìn nó nói, tao tin khi nào? Nó chĩa mõm về tôi chửi, nếu không tin thì mày là thằng đạo đức giả.

Tôi không thể giải thích cho con Lu hiểu, cô giáo không có lỗi, toàn bộ thông tin cô có được chỉ có thế, đức tin của cô chỉ có thế và chỉ có thế mà thôi. Với cô, đương nhiên bố cô là một ông thánh, chỉ có đúc tượng thờ không phải bàn gì hết. May thay cô giáo chỉ biết sự thật về mẹ cô, nếu biết sự thật về bố cô nữa chắc cô không sống nổi, nếu sống được cô sẽ không có cả bố lẫn mẹ. Nếu tôi nói ra những gì tôi biết về Thủ trưởng sẽ rất lố bịch và tàn độc với cô giáo của tôi. Con Lu không chịu, nó đòi tôi phải lên tiếng. Nó chồm lên giận dữ sủa vào mặt tôi.

Cô giáo tôi không hiểu gì cả, thấy con Lu như muốn lao lên xé xác tôi, cô co rúm chết khếp. Mi Na, không được hỗn! Cô kêu lên. Con Lu quay ngoặt lại, nó chồm lên mặt cô kêu đánh ẳng một tiếng, tiếng kêu đau hộc máu. Cô hoảng hốt ôm chầm lấy tôi. Không biết nói gì tôi chỉ ngồi im để cô ôm chặt. Tôi không thể nói cho cô biết lúc cô bảy tuổi con Lu bốn tuổi, bốn tuổi chó bằng bốn chục tuổi người, tuổi ấy mới hiểu hết sự đời. Tôi muốn hét lên, con Lu đúng đấy cô ơi. Tôi đã không dám, cứ để mặc cho cô run rẩy ôm lấy, mỗi lúc mỗi xiết chặt lấy tôi. Con Lu tưởng tôi bênh cô, tôi đã quên hết những gì bốn mươi năm về trước, nó tru lên một tiêng dài tuyệt vọng và vọt ra khỏi nhà cô.

Từ đó con Lu không bao giờ về nhà cô, cũng không bao giờ tìm gặp tôi nữa.

*

Tối hôm đó tôi ngủ dưới một trời mưa giông. Rượu nhấn tôi chìm sâu vào giấc ngủ mê mệt. Tôi nghe tiếng sủa của con Lu vang vang. Tôi choàng tỉnh, mừng quá tưởng nó đã trở về. Thì ra đó là sấm. Tiếng sấm đầy trời phẫn nộ và chua xót. Tôi ngồi im trong bóng tối ngóng về quê nhà. Ngày con Lu bị chặt đầu ba tôi bằng tuổi tôi bây giờ, ông có nhiều đêm ngồi thu lu trong bóng tối nhìn ra trời như tôi bây giờ.

Từ ngày bác Đông chết rồi con Lu chết, quanh ba không còn ai. Còn dị nhân Kiểm Hát nhưng dã chỉ thích chửi ba chứ không thích tâm sự. Dã chửi đúng và hay nhưng ba cần một lời khuyên. Không còn ai khuyên ba, quanh ông không ai dám khuyên ông. Người ta đến với ba để xin ý kiến chứ không phải để cho một lời khuyên. Chưa bao giờ ba đơn độc như lúc này. Ông thường lên tầng thượng nhà Ủy ban ngồi một mình suốt đêm hoặc đóng kín phòng làm việc nhâm nhi chai rượu thuốc suốt ngày, tuyệt không tiếp một ai.

Ba đâm nghiện nặng những bài diễn văn tràng giang đại hải, tràn ngập thứ ngôn từ hoa hòe hoa sói và trống rỗng, tự ông cũng thấy dài và rỗng nhưng không cưỡng được mỗi khi đứng trước đám đông. Nhiều lần theo ông về cơ sở tôi đã phát ốm vì chuyện này. Sau những đón tiếp linh đình là buổi nói chuyện của ba. Đúng là một buổi, từ khi ông cất giọng “thưa các đồng chí!” cho đến ông hạ giọng “cảm ơn sự chú ý của các đồng chí!” chưa khi nào dưới ba tiếng đồng hồ.

Tôi ngồi ở chiếc ghế trống cuối hội trường với một lô bánh trái và nước ngọt. Ở đâu tôi cũng được tiêu chuẩn một chiếc ghế trống không ai được ngồi ké, đó là nhờ lái xe của ba sắp đặt. Lái xe của quan đầu tỉnh cũng có uy quyền dưới một người trên muôn vạn người, có quyền can thiệp để cho tôi một chỗ ăn chơi thoải mái ngay trong cái hội trường chật chội, năm, sáu người ngồi chung một ghế. Tôi nhẩn nha ăn uống no nê, ngẩng lên vẫn thấy ba nói. Chán, tôi bỏ ra khỏi hội trường leo lên xe Com-măng-ca, nì nèo lái xe cho xe chạy vòng vòng quanh đấy. Lại chán, tôi lại chạy vào hội trường, ba vẫn nói say sưa. Tôi đánh một giấc dài, vùng dậy vẫn thấy ba nói.

Dần dà ba không còn là ba nữa, mặt ông cứ bạc dần đi, đôi mắt tươi sáng của ông khô héo dần đi. Phong thái khoan thai đài các của ông cũng biến mất, ông đi đứng tất bật mắt trước mắt sau ngó ngược ngước xuôi trông rất buồn cười. Sau những cuộc diễn thuyết tràng giang đại hải ba ngồi thu lu trong buồng im hơi lặng tiếng hàng giờ liền.

Một đêm khuya khoắt tôi tỉnh dậy không thấy ba đâu. Ngoài trời mưa to gió lớn, sấm nổi đùng đùng. Tôi gọi ba, không thấy ông trả lời. Giờ này ba vẫn hay leo lên tầng thượng một mình, mưa to gió lớn thế này không lẽ ông lên đó. Ba lên lên đó thật, tìm hoài không thấy ông đâu tôi liều leo lên tầng thượng, ông ngồi thù lù như con gấu đen ngửa mặt nhìn lên trời đang lẩm bẩm một điều gì. Tôi ngao ngán hết nổi.

Ba! Tôi gọi. Ông quay ngoắt lại xuỵt, ra hiệu im lặng. Nhìn quanh chẳng thấy gì, tôi kéo tay ba. Mưa ướt hết rồi, ba! Tôi nói. Im! Ông chỉ tay lên trời. Con Lu đang sủa đấy. Chưa bao giờ tôi thấy ba sợ hãi dúm dó đến vậy.Tôi ngước lên trời chẳng thấy gì ngoài ánh chớp lóe liên tục và tiếng sấm rền bốn bề. Ba xuống đi, mưa hết rồi. Tôi ra sức kéo tay ba đòi ông rời tầng thượng. Ba không chịu, ông mặt mày nghiêm trọng chỉ chỉ trỏ trỏ. Con Lu đó kìa, con không nhớ con Lu à? Ba xuống đi! Xuống ngay đi! Bực mình tôi hét to. Ba vụt đứng lên bắc loa gọi lên trời. Lu ơi trốn đi!... Trốn đi Lu ơi!... Ông chạy đi chạy lại, chạy đi chạy lại quay cuồng trên tầng thượng, suýt nữa đâm bổ xuống đất. Tôi sợ quá khóc òa. Tự nhiên giông gió cũng lặng phắc. Ba đứng như trời trồng, vài giây sau đổ sập xuống trước mặt tôi, cú rơi mạnh đến nỗi tôi tưởng ông tan ra từng mảnh.

*
Ba lên cơn sốt trong chín ngày, khỏi sốt lại mắc phải chứng bệnh lạ kì, chứng bệnh đã đẩy ba nhanh chóng rời bỏ quyền cao chức trọng, trở lại với một chút tước phẩm bèo bọt thấp hèn không phải quí phái càng không, ấy là chứng ghét ruồi.

Không ai ghét ruồi đến khốn khổ như ba. Hễ thấy ruồi là ông không chịu nổi, thế nào cũng tìm diệt bằng được. Dường như ruồi là mối bận tâm duy nhất và cuối cùng của ba. Tôi bốn tuổi không thể biết vì sao ba lại quan tâm đến ruồi làm vậy. Không một bữa cơm nào ba ăn được ngon miệng, một con ruồi xuất hiện là ông buông đũa bám theo, chưa bắt được ông chưa chịu bưng bát ăn tiếp. Loay hoay mãi có khi hơn nửa tiếng mới chụp được con ruồi. Vừa bưng bát lên lại có một con ruồi khác xuất hiện, ông lại buông đũa tìm diệt. Nhiều khi bữa ăn kéo dài hai, ba tiếng đồng hồ.

Việc tìm diệt ruồi chiếm gần hết thời gian ăn uống nghỉ ngơi của ba. Không một buổi nghỉ trưa nào ông được ngon giấc. Ba gầy tọp đi vì ruồi, suốt ngày đầu óc ông chỉ lởn vởn những con ruồi vồ trượt. Nếu thấy một con ruồi trong phòng làm việc, dù đến giờ cần phải ra khỏi phòng ba cũng mặc kệ, ông kiên trì đuổi bắt, bày mưu tính kế cực kì nghiêm túc nhằm tìm diệt kỳ được mới thôi. Bắt sống được ruồi ba mừng như vớ được của rơi, ông hoan hỉ nhét nó vào lọ Penicilin bé bằng ngón tay, cẩn thận nhét nắp cao su bịt kín lọ. Lúc nào ông cũng thủ sẵn lọ Penicilin đầy ruồi trong túi, thỉnh thoảng lôi ra say sưa ngắm nó hàng giờ. Khi có một con ruồi trong lọ giãy chết, đấy là thời khắc ba mê say tận hưởng với niềm cảm khoái không gì so sánh được.

Ba nâng cái lọ lên mắt chớp chớp miệng chóp chép hồi hộp chờ đợi. Con ruồi run lẩy bẩy, năm im giây lát lại run lẩy bẩy, chân và cánh duỗi ra rồi dần dần co quắp. Bất thình lình nó lật ngửa, cứng đơ. Ba thở phào nhẹ nhõm, mắt ông sáng long lanh, niềm hạnh phúc như người lính vừa xong một trận công đồn thắng lợi. Bắt ruồi bỏ lọ Penicilin trò chơi của con trẻ đến tôi còn chẳng buồn ngó đến, một ông già có bảy đứa con ( thực ra là mười đứa) lại say mê, thật kỳ cục. Càng kỳ cục hơn nữa khi ông già đó là ông quan đầu tỉnh. Ba thừa biết việc một ông quan đầu tỉnh lại say mê trò chơi bắt ruồi bỏ lọ rõ ngớ ngẩn điên rồ, khốn thay ông không tài nào kiềm chế được mỗi khi thấy ruồi.

Rất nhiều lần đến giờ đi công tác, lái xe vào phòng mời ba ra xe, thấy ông vẫn loay hoay dưới gầm giường với một con ruồi chết tiệt nào đó, nói thế nào ông cũng không chịu chui ra. Chú mần chi đó? Lái xe hỏi. Ruồi...ruồi nhiều lắm. Ba loay hoay dưới gầm giường phục bắt cho được một con ruồi. Đến giờ đi họp rồi chú! Lái xe giục. Ừ... nhưng mà ruồi nhiều lắm! Ông vẫn không chịu chui ra khỏi gầm giường. Thật không gì ngao ngán hơn. Thế cùng lái xe đành phải túm tay lôi ba ra khỏi phòng, nhét vào xe. Ba lên xe với nỗi ấm ức không gì làm cho khuây khỏa được, dọc đường cứ lẩm bẩm hàng giờ về con ruồi vừa thoát khỏi tay ông.

Buổi sáng một ngày như mọi ngày năm 1960, sáu trăm cán bộ cốt cán đang nín thinh nghe ba diễn thuyết món ngôn từ trống rỗng nhiều người đã thuộc lòng, họ có thể nói đúng y xì câu tiếp theo ông sẽ nói. Những bộ mặt nghiêm trang chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng khẽ gật đầu tán thưởng chẳng qua chỉ để giấu giếm nỗi ngán ngẩm vô biên. Tất cả sốt ruột chờ đợi mấy tiếng cuối cùng “cảm ơn sự chú ý của đồng chí!” để đồng loạt tặng ba tràng vỗ tay ngất trời thưởng cho công khó ông ba hoa suốt buổi, đồng thời thổi phồng niềm kiêu hãnh rỗng tuếch của ông.

Ba thừa biết người ta đang nghĩ gì, đang chờ đợi điều gì và sẽ làm điều gì cho các bài diễn văn trống rỗng và vô nghĩa, ông vẫn không cách gì kìm được. Ba vẫn hồ hởi phấn khởi kéo dài đến bài diễn thuyết gần như vô tận nếu không có con ruồi bỗng nhiên sà xuống đậu thản nhiên trên micro. Lập tức ba dừng lại. Một giây để định thần, một giây cho quyết tâm tiêu diệt. Sáu trăm cán bộ cốt cán không hiểu vì sao cấp trên đang cao giọng bỗng nhiên im bặt, tất cả nhìn ông lo lắng và căng thẳng. Ba vung hai tay đập cái bốp, micro rơi xuống đất còn con ruồi thì bay vụt ngược lên. Bây giờ người ta đã hiểu. Lác đác vài tiếng cười rúc rích. Ba rời bục diễn thuyết, chăm chú lần theo dấu vết con ruồi. Nó đang lượn vân vi, ra cái vẻ bất cần đời, cách mũi ông chủ tịch tỉnh không đầy một mét.

Sáu trăm cán bộ cốt cán đã hiểu ông quan đầu tỉnh đang làm gì. Một số người ngồi yên bịt miệng cười, số còn lại, tiếc thay là hầu hết hội trường, kẻ trước người sau rón rén theo ba. Ba đập tay cái bốp, liền sau tiếng đập tay của ông, đột khởi rộ lên tràng bốp bốp liên thanh. Ba lom khom đi trước, mấy trăm con người rón rén theo sau. Mỗi khi ông đập tay đánh bốp, mấy trăm tiếng đập đánh bốp rộ lên phù họa. Từ trên nhìn xuống thấy đám đông theo sau ba giống đám ruồi bám theo đuôi thằn lằn ngoe nguẩy khi xúm vào khi tản ra cùng với tiếng bốp bốp khi khoan khi nhặt, đúng là màn hí kịch cười ra nước mắt.

Tiếng đập ruồi nghiêm trang và quyết liệt kéo dài hết buổi sáng ngày hôm đó, thu được kết quả không ngờ: năm trăm hai mươi tám con ruồi gom lại được hai vốc đầy, nâng số lượng diệt ruồi của ba lên đến con số vạn, chính xác là một vạn hai ba ngàn hai trăm linh chín con cả thảy, đồng thời chấm dứt luôn sự nghiệp đẹp như mơ của ông.

*
Ba trở lại quê nhà với vai trò phó ban tuyên giáo huyện, thứ trọng trách dành cho một người thất thế chưa đến tuổi về hưu. Thế cũng còn may, lúc đầu người ta tính đưa ông ra trại tâm thần, nếu không cũng cho ông nghỉ mất sức.

Buổi chiều buồn thiu ba về nhà không bằng chiếc Com-măng-ca màu cứt ngựa, ông đạp xe đạp từ tỉnh lị về nhà, không ai tiễn cũng chẳng ai đón. Mạ đón ba ở cửa, lẳng lặng tháo cái ca táp sau yên xe đưa vào giúp ông. Mạ không một lần dám ngước lên nhìn ông, bà lúi cúi làm hết việc này đến việc khác, nơm nớp lo ông bỗng nhiên nổi đóa, rất dễ tan nát cả buổi chiều.

Ba ngồi tựa cửa nhìn ra đường, cái nhìn trống rỗng vô hồn. Mấy anh chị của tôi thấy ông về, mừng lắm nhưng không dám chào, đứng túm lại một góc, len lén nhìn. Chúng tôi sợ sệt nhìn nhau, chẳng ai hỏi vì sao. Mâm cơm đã dọn, không ai dám mở mồm mời ông một tiếng. Mạ cũng không dám, bà đánh tiếng bằng cách quát nạt con tại sao ăn cơm lại không mời ba. Chúng tôi rào rào mời ông ăn cơm. Ba ừ, nở nụ cười méo xẹo. Ăn đi con. Ba nói. Cứ ăn đi đừng chờ ba. Tuân lệnh ba cả nhà gắp gắp chan chan, không ai nói với ai. Mạ cắm mặt vào bát cơm, thỉnh thoảng bà liếc sang ông dò ý, thở dài một tiếng chừng như để ông nghe, rồi lại cắm mặt vào bát cơm. Bữa cơm chiều lặng ngắt như một bữa cơm tang.

Anh Chín cắm thìa trố mắt nhìn ba. Có mấy con ruồi đang sà xuống mâm, anh nhìn ba như hỏi sao ông không bắt. Anh Chín cúi xuống ngước lên, hết trố mắt nhìn ba lại trố mắt nhìn mấy con ruồi. Đến lượt anh Tám cũng cắm thìa hết nhìn ba lại nhìn mấy con ruồi. Rồi anh Bảy, chị Hai và mạ, ai nấy mải mốt hết nhìn ba lại nhìn mấy con ruồi. Ba không hiểu sao cả nhà cứ trương mắt nhìn ông. Ăn đi,... nhìn chi rứa! Ông lừ mắt với cả nhà. Không ai dám lên tiếng. Duy nhất anh Chín chỉ mấy con ruồi nói. Ba nhòi tề!... Ba nhòi tề! Ba lấy quạt xua mấy con ruồi. Ăn đi con. Ba nói. Ba sững lại mắt sáng lên, ông chợt nhận ra giờ đây ông không còn quan tâm đến ruồi nữa. Thôi đúng rồi, chứng ghét ruồi mới cách đây một ngày ông đang mắc phải giờ đây đã hết mất tiêu.
Ba cười, lúc đầu còn cười mũi khịt khịt sau cười họng khì khì, cuối cùng ông há miệng cười khơ khơ khơ, kha kha kha... cái cổ giật giật cái mặt rung rung, nước mắt sống chảy giàn giụa. Nhà tôi ai nấy cười theo ông. Tôi vừa cười vừa vỗ tay bem bép. Anh Chín vừa cười vừa quệt mũi. Anh Tám vừa cười vừa nhảy cà tẩng. Anh Bảy vừa cười vừa thở hắt ra. Chị Hai vừa cười vừa lau nước mắt. Mạ vừa cười vừa mơn trớn nhìn chồng, cái nhìn bị bà bỏ quên đã bốn năm nay.

Đêm đó ba chủ động xiết chặt mạ vào lòng thì thầm, em ơi... anh có lại rồi! Mạ nấc lên sung sướng. Ba dằn ngửa mạ ra đâm hối hả, đâm như chưa bao giờ được đâm, như đâm lần cuối để mà chết. Ba vừa đâm vừa khóc, tiếng khóc rực lên một nỗi si cuồng. Mạ cũng trào nước mắt, bà giật và rú, giật và rú... trong đầm đìa nước mắt. Lần đầu tiên cũng là lần duy nhất cuộc hôn nhân sáu chục năm nước mắt ba mạ tôi chứa chan hạnh phúc.

Thằng Út nhà tôi đang ở vị trí 161 bên trái buồng trứng của mạ bỗng nhận được luồng khí mát rượi cùng với một vầng sáng màu lá mạ tỏa sáng rực rỡ. Lúc đó đúng 3 giờ 11 phút sáng, nó nhớ như in, đó là thời khắc nó nhận được chứng chỉ làm người. Sau này thằng Út cũng thành nhà văn, nó đã kể cho tôi nghe giây phút đó.

Linh Đàm 2010-Thảo Điền 2015

0 nhận xét:

Đăng nhận xét