Chân dung
Mình đọc văn Phan Tứ thời bé, đọc
vì tò mò muốn biết chuyện chiến đấu miền Nam, chuyện chiến đấu ở Lào, anh ra
cuốn gì đều đọc ngấu nghiến cuốn đó. Sướng nhất vẫn là cuốn Trước giờ nổ súng.Văn chương thời đó mà
tả yêu đương lãng mạn, lại còn nói chuyện phản bội là ghê lắm, có lẽ trong vòng
chục năm, kể từ năm 1960, đó là cuốn tiểu thuyết hay nhất.
Thời đó Phan Tứ lấy tên thật là Lê
Khâm, kể từ cuốn Về làng anh mới lấy
bút danh là Phan Tứ, dù thế nào mình cũng tiếc cái tên Lê Khâm, nó hay hơn tên
Phan Tứ, nhất là sau cuốn trước Trước giờ
nổ súng cái tên Lê Khâm đã đóng đinh vào trí nhớ nhiều thế hệ bạn đọc miền
Bắc rồi.
Vì thế mới có chuyện thầy giáo của
mình khoe là bạn học với Lê Khâm, mình biết ông nói phét chứ Lê Khâm học Đại
học tổng hợp từ năm 1958 còn thầy thì học sư phạm Việt Bắc năm 1968. Mình nói
thầy có quen Phan Tứ không, thầy nói Phan Tứ học trước tớ hai năm, nhưng quen
thân nhau lắm.
Bốc lên thầy còn khoe một hôm thầy
ngồi uống rượu nói chuyện với Lê Khâm và Phan Tứ, thầy phê bình Lê Khâm về tính
tiêủ tư sản trong tiểu thuyết Trước giờ nổ
súng. Thâỳ nói Lê Khâm không chịu nhưng Phan Tứ thì gật gù khen tớ nói đúng.
Hi hi thầy bà nước mình vui lắm, nhiều người
chỉ chờ lên lớp là tán phét tôi ngày xưa thế này, tôi ngày xưa thế kia, kì thực
dạy Kiều không đọc hết Truyện Kiều,
dạy Chinh phụ ngâm không biết cuốn Chinh phụ ngâm ngang hay dọc. Thôi không nói chuyện này nữa, kể
chuyện Phan Tứ cho vui.
Năm 1982 mình đóng quân ở Phước Tường
( Đà Nẵng) vẫn hay qua lại Hội Văn nghệ tỉnh chơi, quen anh Quốc ( Bùi Minh
Quốc), anh Quế ( Thanh Quế) chị Cúc ( Ngô Thị Kim Cúc) đã lâu nhưng Phan Tứ thì
chưa gặp. Một hôm đang ngồi quán cà phê cạnh Hội, thấy một ông già già nho nhỏ
gầy gầy, áo bỏ vào quần gọn ghẽ, đi dép cao su đeo đủ bốn quai, cái ca táp
khóac chéo quai ngang ngực lúi húi đi vào, anh Quế nói Phan Tứ đó kià, mình quá
ngạc nhiên.
Đọc Mẫn và tôi mình cứ hình dung anh như nhân vật Thiêm, đẹp trai sang trọng, nhã nhặn ôn hoà, linh lợi hoạt
bát, chẳng ngờ anh y chang ông trưởng thôn lên tỉnh họp. Anh bắt tay mình, nói
Lập còn trẻ quá nhỉ rồi quay sang bàn việc Hội với anh Quốc, anh Quế, bàn xong
thì đi, không hề nói chuyện văn chương. Nói chung bốn năm gần anh chưa bao giờ
mình nghe anh tán gẫu được dăm câu, lúc nào anh cũng có vẻ vội, không hề thích đàn
đúm.
Anh Quế nói ông Phan Tứ làm cái gì
cũng lên kế hoạch, thời gian biểu kẻ bảng, hôm nay đi đâu mấy giờ, làm việc đến
mấy giờ, tạt qua thăm ai, nói chuyện cái gì, mấy giờ thì về nhà… cứ thế răm rắp.
Anh Quốc nói ở nhà ông còn răm rắp
hơn, thức dậy giờ nào, thể dục giờ nào, ăn
sáng giờ nào, uống thuốc bắc giờ nào, nghe đài ta giờ nào đài địch giờ nào, vào
bàn viết giờ nào… tuyệt không sai một khắc.
Mình cười hì hì, nói ngủ với vợ
chắc cũng đúng giờ luôn nhỉ. Anh Quế nói chớ sao, đến vệ sinh giờ nào đi xia
giờ nào đi tiểu ông còn rèn cho đúng giờ được nữa là. Mình thè lưỡi rụt cổ, nói
sợ quá sợ quá.
Anh Quốc đập tay cười kha kha kha,
nói được rồi, khi nào tôi chuốc ông Phan Tứ món rượu kích dục xem thử ông có đúng
giờ được không. Anh Quế nhăn răng cười,
nói hay hay, nhưng mà thua ổng thôi, ổng lập trường vững vàng lắm, chưa đúng
giờ thì có dí bướm vào mũi ổng vẫn không xao xuyến.
Có lẽ nửa đời trong quân ngũ, sống
trong môi trương gian khổ khắc nghiệt đã rèn cho Phan Tứ một nếp sống rất lính,
chặt chẽ ngăn nắp đến từng li. Anh đặt chỉ tiêu một tháng một cái truyện ngắn,
hai mươi trang tiểu thuyết cứ thế mà răm rắp. Nhờ thế anh có gần chục ngàn
trang in, chưa kể 50 cuốn nhật kí dày cộp, nếu in ra cũng chục ngàn trang in là
ít.
Anh viết nhật kí đều đặn đúng giờ
như người ta phải ăn cơm đúng bữa, viết bằng ba thứ tiếng Lào, Nga và Pháp,
thêm tiếng Việt nữa là bốn. Mình đến nhà chơi, thấy chồng nhật kí cao ngất của
anh mà hoa mắt, lại còn viết bằng ngoại ngữ mới thất kinh. Anh nói viết ngoại
ngữ để rèn kĩ năng ngoại ngữ, với lại nhỡ có rơi vào tay địch hay tay ai cũng đỡ
phiền. Phục anh quá chừng.
Nghe nói trước khi viết cái gì anh đều
làm đề cương chi tiết đưa bạn bè đọc, cấp trên
xem xét, cho góp ý xong thì mới bắt tay vào viết, rất nghiêm túc. Có lẽ
vì thế văn anh càng về sau càng thấy hợp
lý, mọi thứ đều đâu vào đấy nhưng mà đọc
mất sướng.
Đối với lớp trẻ anh rất ân cần thương
mến nhưng ít khi anh nói chuyện văn chương, chưa khi nào anh hỏi mình cậu thấy
truyện này truyện kia của tớ thế nào. Tuồng như anh biết văn anh là thế nào, đang
ở đâu, có hỏi cũng chỉ nghe nói dối mà thôi.
Một hôm mình nói anh Tứ chẳng khi
nào nói chuyện kinh nghiệm viết lách cho tụi trẻ các em nghe cả. Anh mỉm cười,
nói các cậu bây giờ thành sư cả rồi, cái mà mình cho quan trọng thì các cậu cho
vớ vẩn, cái mà các cậu cho là ghê gớm thì mình coi chẳng ra gì. Cho nên mạnh
thằng nào thằng đó cứ viết, thằng hót thằng hét thằng hát văn đàn Việt mới hay
lên được.
Thích nhất vẫn cái tính kĩ lưỡng
chi tiết của anh. Trong cái tạp dề của anh có hộp kim với năm bảy loại kim dài
ngắn to nhỏ. Chỉ cũng năm bảy loại và một hộp cúc có đến mấy chục cái cúc khác
nhau. Mình nói biết là anh có tính phòng xa nhưng anh mang theo nhiều loại kim
chỉ làm cái gì, lại còn cúc mấy chục loại nữa, không lẽ áo quần anh nhiều loại
cúc thế à. Anh nói mang phòng nhỡ có ai tuột chỉ đút cúc thì có dùng chứ áo
quần mình có mấy đâu.
Đi đâu mà có Phan Tứ đi cùng khỏi
lo gì hết, kể cả chuyện vặt ít ai nghĩ tới anh cũng đã tính rất kĩ. Mình nhớ
mãi chuyến đi chơi dọc sông Thu Bồn có anh đi cùng. Hôm ấy có đông người lắm,
mấy chục người cả thảy văn thơ nhạc hoạ đủ hết, danh sĩ Bắc Trung Nam ngồi đầy
một chiếc thuyền lớn.
Đến khúc sông cạn, nước trong vắt, mọi người
cắm thuyền giữa dòng, ai thích tắm thì tắm. Nhiều người nhảy xuống tắm, tắm
xong leo lên bờ, lúng túng không biết thay áo quần ở đâu. Phan Tứ chìa ra một
cuộn vải với ba cái cọc móc sẵn cho mọi người làm cái quầy che tạm thay đồ. Thì
ra anh đã tính trước cuộc chơi có những mục gì, tại đó cần cái gì, anh lẳng
lặng lo cho anh em trước cả.
Đêm neo thuyền ven bờ ngủ lại men
sông, mình ngồi trên tảng đá to phẳng lì với Bùi Minh Quốc, Thanh Quế, Cao Việt
Bách, Thuận Yến, Nguyễn Trọng Oánh uống rượu tán phét rất vui. Giữa chừng hết rượu
trong khi hãy còn thòm thèm. Rượu mang theo khá nhiều nhưng đoàn đông người, đi
chơi hai ba ngày, anh Thâm ( Nguyễn Bá Thâm) sợ hết rượu nên quản rất chặt.
Biết xin thêm anh Thâm chả cho, anh
Quốc nói các vị trên thuyền ngủ rồi đấy,
thằng Lập khoẻ trẻ đẹp trai, mày xông vào ăn trộm một bình tông nhanh lên. Mình
lĩnh ấn tiên phong mò vào thuyền sờ soạng tìm rượu, chẳng may đụng phải chân
Ngô Thị Kim Cúc, bà Cúc tưởng ai định sàm sỡ kêu ầm lên, thế là lộ chuyện.
Anh Thâm chẳng những không cho rượu
lại còn mắng cho nữa. Mình vừa ngượng vừa tức nhảy ra khỏi thuyền thì Phan Tứ
gọi giật, nói Lập Lập đây đây, anh dúi vào tay mình một bình tông rượu đầy, nói
rượu mình mang theo dự phòng đây. Mình cảm động quá, anh còn tính trước cho cả
mấy ông sâu rượu, hiếm có ai chu đáo đến như thế.
Phan Tứ là vậy, đi đâu nhỡ đói có
anh mang sẵn tiền, nhỡ khát có anh mang sẵn nước, giấy lau miệng, tăm xỉa răng,
dao cạo râu… đủ cả, đến cả giấy vệ sinh nhỡ khi đau bụng anh cũng chả quên. Hôm
nghe tin anh mất, hình như là một ngày mùa thu năm 1995, mình đang ở Hà Nội,
lảng lặng ra quán rượu ngồi một mình nhớ anh. Chỉ nhớ mấy chuyện lặt vặt ấy
thôi mà ứa nước mắt.
Rút từ Bạn văn 1
0 nhận xét:
Đăng nhận xét