Chương bốn
Một
mùa hạ nữa đang chảy qua tuổi trẻ của Hoàng.
Hoàng
nhớ lần cuối cùng anh và Thùy Linh cùng nhúng mình xuống sông Linh, ngụp lặn
tha hồ như những con cá chép trắng muốt, lấp lánh trong một buổi chiều đầu mùa
hạ năm họ tròn mười bảy tuổi. Không ngờ sau đó mãi mãi họ không được cùng nhau
vùng vẫy, nghịch ngợm cười vang mặt sông như thế này nữa.
Sông
Linh dường như bao giờ cũng chờ đón họ, từ bao đời nay nó vẫn dịu dàng chờ đón
với tất cả. Nó bắt nguồn từ phía bên kia dãy núi chín mươi chín ngọn. Nhìn từ thị
trấn, dãy núi giống như một bức tranh hoành tráng miêu tả một cuộc khởi nghĩa
nào đó. Nó, dòng sông, nhẹ nhàng men theo những làng mạc trù phú chảy về xuôi.
Trước khi trôi về thị trấn, sông Linh ngoái lại thượng nguồn nhiều lần như nuối
tiếc vì một nghĩa vụ chưa thành về nơi đã sinh ra nó, hoặc là thương nhớ và day
dứt về những gì nó sống với thượng nguồn... Những vòng tròn mở rộng của dòng
sông do "ngoái lại" nhiều lần đã tạo nên những ốc đảo đứng trầm ngâm
giữa dòng sông. Gặp thị trấn, dòng sông bỗng vỡ ra, chảy tràn trề không thành
dòng, dập dềnh mọi bãi bờ men thị trấn. Lần đầu tiên dòng sông biết đến một
miền quê đông vui, nhộn nhịp, lấp lánh ánh điện và vang những âm thanh náo
nhiệt mà suốt một trăm ki-lô-mét từ thượng nguồn nó không hề bắt gặp. Dòng sông
không muốn chảy tiếp nữa, cứ dùng dằng quanh thị trấn cho đến lúc nó sực nhớ nó
là dòng sông, đích của nó là biển cả, thế là nó vội vã trôi đi. Trước khi tạm
biệt thị trấn, nó ngoái lại hai lần: Chào, chào... và lao như điên về biển cả.
Bắt đầu từ thị trấn, sông Linh chảy xiết hơn, ầm ào, hùng hục... Hình như nó sợ
nếu dừng lại, ngoái lại một lần nữa, dù chỉ trong giây lát, là nó không thể đi
được, không cách gì rứt ra mà đi được...
Náng
chiều rủ xuống thành từng đám vàng nhạt rải dọc bờ cát. Họ ngồi im lặng đăm đăm
nhìn ra mặt sông đang chuyển màu tím sẫm. Có gì mà nói khi ngày nào hai người
cũng gặp nhau. Chỉ có nhớ, một nỗi nhớ ngọt ngào cứ vương vấn mãi trong mỗi
người ngay khi họ vừa chia tay. Thế là lại tìm cách gặp nhau, bất cứ lý do gì,
có khi là những lý do rất buồn cười. Hoàng đã lớn, dù lớn sau Thùy Linh, nhưng
đã lớn. Thùy Linh bỗng lạ lùng trước mắt anh vào một ngày học kỳ một lớp chín.
Khi đó Thùy Linh từ rặng phi lao bước ra, đứng sững trước mắt Hoàng, hai má đỏ
ửng. Ngực Hoàng bỗng rung lên.
-
Đẹp quá.
Anh
kêu khẽ và cảm thấy lúng túng không biết nên bắt đầu như thế nào. Hai người
nhìn nhau rất lâu và bất chợt cười to cả hai, nắm tay nhau chạy tung tăng trên
cát, dưới những rặng phi lao năm tuổi. Không biết đó có phải là ranh giới quy
ước cho Hoàng thành người lớn hay không nhưng anh nhớ, không thật chắc chắn cho
lắm, kể từ ngày đó Thùy Linh bắt đầu ám ảnh anh. Nhắm mắt lại: Thùy Linh, ngồi
dậy: Thùy Linh, đi, đứng, chạy, nhảy, cười, nói vẫn Thùy Linh - Thùy Linh -
Thùy Linh... không ai khác, Hoàng không biết anh đã yêu cô, chỉ biết nhớ khủng
khiếp, ngay khi có Thùy Linh bên cạnh như lúc này thì anh vẫn nhớ. Thật lạ
lùng...
Thùy
Linh ngồi bên anh, hai tay trần bó gối. Cô ngồi im như một bức tượng thạch cao
trắng muốt, bộ ngực nhỏ phập phồng. Lần đầu tiên cô xuống sông Linh với một bộ
đồ tắm đủ che những gì cần thiết. Đám đàn bà con gái thị trấn này chưa ai mặc
như vậy để tắm, kể cả những người đàn bà táo tợn nhất. Vậy mà Thùy Linh đã hiện
ra như nàng tiên cá trong một bộ phim Hoàng đã nom thấy được. Chính Hoàng cũng
sửng sốt khi Thùy Linh xuất hiện từ trong đám lá rưới - được làm nơi thay áo
quần cho những người tắm sông - bước từng bước chậm rãi trong nắng chiều: trắng
muốt và lấp lánh, trắng muốt và lấp lánh... Hoàng hoa mắt, vội vàng quay mặt
đi. Nhưng chỉ được một thoáng, không cưỡng được, anh lại quay về phía Thùy Linh
đang bước, vẫn trắng muốt và lấp lánh dưới nắng chiều. Bắt gặp ánh mắt của
Hoàng, Thùy Linh bối rối một chút rồi lẹ làng buông tấm thân nõn nà xuống dòng
sông, như một mảnh trăng non dập dềnh...
-
Đố bắt được đấy!
Thùy
Linh bơi cách bờ một quãng xa, lật nghiêng người ngoái về phía Hoàng, đưa tay
vẫy vẫy. Hoàng đứng bật dậy nói to:
-
Thật không?
-
Thật!
-
Rồi nhé!...
Hoàng
lao xuống nước. Bằng lối bơi ếch nhuần nhuyễn, một phút sau anh đã đuổi kịp
Thùy Linh, Hoàng cầm lấy chân trái Thùy Linh kéo lùi, cô kêu lên:
-
Đừng có hòng nhé!
Thùy
Linh úp mặt xuống nước, hai tay đập nước lia lịa.
-
A ha! Bơi như chuồn chuồn đạp nước thế thì...
-
Cứ đuổi kịp xem nào?
-
Rồi nhé!...
Họ
kêu vang mặt sông và quần đuổi nhau như những con cá chép mùa động dục. Hoàng
dướn lên, vượt trước Thùy Linh, đột ngột quay gập ngược trở lại, dơ tay định ôm
ghì lấy cô. Thùy Linh cười, vội vàng lặn xuống để tránh cái "úp nơm"
của anh. Hoàng vồ hụt, mất đà chúi đầu vào ngực cô. Cả hai lặng đi một giây
dưới đáy sông. Cái sự "chập
mạch" tình cờ ấy đã làm cho Hoàng lẫn Thùy Linh rung lên ở một tần số khác
thường. Họ rời nhau ra, lẳng lặng, không ai nhìn vào mắt ai, trống ngực đập
thình thình.
Lát
sau, Hoàng bơi nhẹ đến bên Thùy Linh, anh nói, giọng run run:
-
Xin lỗi.
Thốt
nhiên Thùy Linh úp mặt xuống dòng sông, hai vai trần rung rung. Ngực Hoàng nóng
rực. Phải làm một việc gì đó, một việc gì không rõ là việc gì, nhanh nhanh
nhanh... Bất thần Hoàng quàng tay siết chặt Thùy Linh vào lòng.
-
Anh! Đừng anh!...
Anh!
Trời ơi anh! Ngực Hoàng đập mạnh, rung rung:
-
Em! Thùy Linh, em...
Cả
hai đều run lên, cả hai đều nóng rực, cả hai tìm môi nhau, cả hai nín thở... Họ
chìm dần xuống đáy sông... Chân họ bỗng chạm lớp cát mềm, cả hai buông ra, bơi
vụt lên. Họ thở hổn hển, lại lao vào nhau và nóng rực và rung lên và chìm dần,
chìm dần...
Bây
giờ họ ngồi bên nhau trên bờ sông Linh nắng đã chuyển màu tím sẫm. Họ không dám
nhìn vào mắt nhau, im lặng. Những ngọn sóng nhỏ vỗ nhẹ vào bờ, từng đợt, từng
đợt, cố gắng vươn tới chỗ họ.
-
Thùy Linh!
Một
tiếng gọi giật giọng. Cả hai quay lại, Đại úy đứng sau lưng họ chừng mười mét,
nhìn họ trừng trừng:
-
Tôi hỏi: anh chị đã làm gì ở đây?
Đại
úy hất hàm hỏi. Hai người đứng bật dậy, lúng túng nhìn Đại úy. Hoàng lúng búng:
-
Thưa... chúng cháu tắm, như vẫn tắm...
-
Chỉ có tắm thôi à? - Đại úy gầm gừ, lừ lừ nhìn hai người đang ở thế trần truồng
(theo quan điểm của Đại úy).
-
Vâng, tắm... - Thùy Linh trả lời.
-
Tắm hay cởi truồng ra mà ngắm nhau, hả? - Đại úy cao giọng.
-
Không đúng! Chúng cháu không ai cởi truồng cả! - Hoàng kêu lên.
-
Im đi! - Đại úy nghiến răng, quát!
Ông
chắp tay sau đít, đi lại quanh Thùy Linh, nói dõng dạc:
-
Ai chả biết cô mặc đồ tắm... Nhưng tôi hỏi: tất cả nhân dân lao động ở thị trấn
này có ai mặc xi-líp, xu-chiêng mà tắm không? Không ai cả. Đó là một thực tế sinh động. Còn cô thì học thói
rởm đời của quân tư sản mà mẹ cô là một dẫn chứng. Mẹ
kiếp,
trần như nhộng. Cha chà... thật là kinh khủng.
Hoàng
định cãi lại nhưng anh nín được, mặt đỏ bừng nhìn Đại úy. Đại úy không thèm
nhìn hai người, ông hạ giọng dứt điểm:
-
Từ nay tôi cấm: một, không được tắm bất kỳ chỗ nào trừ nhà tắm. Hai, anh chị
không được hẹn hò với nhau bất kì ở đâu, vào thời điểm nào. Tôi không tin vào
sự trong sáng của anh chị nữa, mặc dù anh chị đều là con cái thuộc các thành
phần cơ bản. Giải tán!
Đại
úy hô lớn và bỏ đi. Được mươi bước, ông quay lại, khoát tay:
-
Giải tán.
Bóng
Đại úy khuất dần vào những bụi tầm ma mọc dày đặc trên bờ đê. Hoàng lắc đầu,
lầu bầu:
-
Thật kinh khủng.
-
Về thôi anh. - Thùy Linh nhắc.
Họ
về mệt mỏi lết từng bước. Đến chỗ rẽ lối vào nhà Thùy Linh, hai người đứng lại.
Thùy Linh bất ngờ sà vào lòng Hoàng, hôn điên cuồng lên ngực, lên trán, lên cổ
anh. Cô đau đớn kêu lên:
-
Em yêu anh! Anh Hoàng! Em yêu anh... anh... ngày mai, ngày mai anh đừng như ba
em. Đừng nhé, đừng như ba em...
Thùy
Linh khóc, mềm nhũn trong tay Hoàng. Hoàng không hôn cô, không hôn một chiếc
nào lên gương mặt đầm đìa nước mắt của Thùy Linh. Anh khẽ nói:
-
Chúng ta còn bé quá...
Thùy
Linh bất ngờ đẩy Hoàng ra, thét lớn:
-
Nhưng chúng ta có quyền sống! Chúng ta có quyền!...
Cô
chạy ào về nhà, vừa chạy vừa khóc. Hoàng đuổi theo, không kịp, cô đã lọt vào
chiếc cổng sắt nhà Đại úy.
*
*
*
Mưa
ròng rã hai ngày rưỡi, hai ngày rưỡi Hoàng không gặp được Thùy Linh. Anh nóng
ruột phát điên lên.
Hãy
còn vài đám mưa bay phơ phất, đôi khi chợt òa xuống chốc lát, lại phơ phất.
Trời vẫn đen kịt nhưng Hoàng không thể chờ cho dứt hẳn trận mưa kỳ quặc này
nữa, anh quyết định khoác áo mưa ra đi.
Muốn đến nhà Thùy Linh phải vượt qua một
cánh đồng rộng chừng năm chục héc ta. Nói là thị trấn nhưng ở đây chất nông
thôn vẫn trội hơn thành thị. Hai phần ba số
dân thị trấn là dân cày bẫm, cuốc sâu. Số dân còn lại sống nhờ vào cái chợ và
làm một vài mặt hàng lặt vặt hoặc sửa chữa xe đạp, may
vá
v.v... Lúc Hoàng và Thùy Linh vào khoảng mười ba, mười bốn tuổi, họ đã nghe Đại
úy Thìn nhắc đi nhắc lại rằng thị trấn rất khó có khả năng tồn tại đến thời kỳ
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Bởi vì, theo như Đại úy nhắc đi nhắc lại, thị trấn
chỉ rặt giai cấp nông dân (chỉ những người làm ruộng) và tầng lớp tiểu tư sản
(chỉ những người sửa chữa xe đạp, may vá và buôn bán nhỏ). Còn giai cấp công
nhân (chỉ những người sản xuất hàng tiêu dùng) ít đến mức coi như không có. Rõ
ràng thị trấn không có giai cấp lãnh đạo làm tiên phong cho mọi phong trào cách
mạng, nên thị trấn khó có thể xây dựng Chủ nghĩa Xã hội cho ra hồn. Điều đó có
thể hiểu tương đương với việc thị trấn có thể bị xóa tên khi chúng ta
vượt qua thời kỳ "quá độ". Thêm vào đó, trường cấp ba của huyện, nơi
Hoàng và Thùy Linh đang theo học, lại
đóng ngay trong thị trấn, tức là tầng lớp trí thức tiểu tư sản sẽ ra đời. Tầng
lớp này rất nguy hiểm vì tính chất dễ sa ngã của họ. Họ có thể phản thùng bóp cổ
Chủ nghĩa Xã hội như chơi, trong khi lực lượng
chuyên chính vô sản sau ngày hòa bình lập lại có vẻ bị thu nhỏ lại và rất chủ
quan!...
Hoàng
và Thùy Linh nghe Đại úy giảng giải khá kỹ lưỡng về vấn đề này, họ chẳng hiểu
gì cả nhưng vì nghe quá nhiều nên ai cũng thuộc. Mãi sau này Đại úy nghe Bí thư
huyện ủy Trần Văn Thanh bảo đấy là sự nhầm lẫn đáng tiếc của Đại úy trong việc
qui ước các "giai cấp" và "tầng lớp" của một vạn rưỡi dân
Thị trấn và có phần vội vàng khi kết luận con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội của
thị trấn khá ảm đạm, Đại úy ngẫm lại, khẳng định là mình sai. Đại úy đã thành
thật "báo cáo" lại với Hoàng và Thùy Linh. Tất nhiên họ chẳng quan
tâm gì lắm về chuyện đó. Họ thích thú đem những ý kiến mà Đại úy đã nhận là sai
lầm đi dọa lũ trẻ nhỏ tuổi hơn, làm cho chúng xanh mặt, không biết sau này mình
sẽ ở đâu. Đứa nào có bố mẹ thuộc tầng lớp tiểu tư sản thì mặt cắt không ra máu.
Ngày đêm chúng mơ ước một ngày nào đó, trời xui đất khiến thế nào, thị trấn
bỗng nhiên xuất hiện rầm rộ "giai cấp lãnh đạo" để cho nó mãi mãi sầm
uất, giàu có như nó vẫn tồn tại, hoặc hơn. Lũ trẻ luôn tin tưởng tất cả những
gì Đại úy nói là những chân lý không thể bác bỏ, bởi vì ông là sĩ quan có quân
hàm cao nhất, được dự nhiều nhất các lớp chỉnh huấn quan trọng cấp tỉnh, và
trên thực tế, ông là người duy nhất bóp cổ được tên quan hai Pháp trong một
trận huyết chiến ở phía tây thị trấn. Đó cũng là lý do vì sao ngôi nhà của Thùy
Linh được cất lên nơi ao tù nước đọng, dày đặc muỗi và phân trâu, nồng nặc mùi
xú uế ở phía tây thị trấn. Vào lúc mưa gió, trời tối đen như thế này, tìm đến
nhà Thùy Linh quả không gì khổ hơn.
Hoàng cẩn thận vừa nhìn vừa ngửi vừa nhắm vào
những vật chuẩn ẩn hiện mơ hồ trong đêm, dấn từng bước...
-
Thùy Linh ơi!
Hoàng
nhóng cổ qua hàng rào dâm bụt nhà Thùy Linh, gọi. Anh đã gọi như thế này có tới
hàng ngàn lần từ thủa "hỉ chưa sạch mũi" đến giờ. Chỉ cần dứt tiếng
gọi là Thùy Linh chạy ra. Cô luôn ở thế chờ đợi anh. Họ sẽ nắm tay nhau ngúc
ngắc tiến ra bờ sông Linh chơi đùa đến chán thì thôi. Hoàng đã gọi, gọi, gọi...
bây giờ anh bỗng thấy hồi hộp mỗi khi cất tiếng. Hoàng dựa vào hàng râm bụt
trước cổng nhà Thùy Linh, tim đập rộn ràng...
-
Thùy Linh ơi!
Mưa
tạt vào ướt hẳn một mảng áo của Hoàng. Anh gọi và nhận thấy tim mình đập nhanh
hơn.
-
Thùy Linh!
Hoàng
nom thấy Thùy Linh đi nhanh xuống bếp, anh gọi nhưng cô không đứng lại. Không
phải, cô dừng lại chút xíu rồi cúi mắt đi. Có chuyện gì thế? Có thể trong nhà
vừa xảy ra một chuyện gì đó, ví dụ như vừa có một cuộc đấu khẩu giữa Đại úy
Thìn và Họa sĩ Tư. Việc này xảy ra thường xuyên, cứ mỗi tuần một lần, nó giống
như bệnh viêm họng mãn tính, thỉnh thoảng lại rống lên, rồi im rồi ôn hòa. Nếu
vậy thì Thùy Linh sẽ chạy ra thôi, bởi các cuộc cãi cọ đó không liên quan gì
đến cô cả. Hoàng đứng lần chần trước hàng rào dâm bụt, suy đoán lung tung, đoán
luôn cả việc bộ ngực vô tâm của Thùy Linh đã phát triển quá sớm khiến Đại úy
Thìn phải ra tay bảo vệ, làm cho
mối quan hệ cuối cùng của Thùy Linh với con trai, là Hoàng, cũng bị chấm dứt.
Bực mình, Hoàng đu đẩy hàng rào dâm bụt rung lên bần bật, đạp vào đám dây nhợ
néo buộc lằng nhằng ở cổng một cái cực mạnh rồi quay gót.
-
Hoàng!
Thùy
Linh chạy vụt từ nhà ra, đứng ép vào hàng rào dâm bụt, gọi. Hoàng quay lui, cố
làm ra vẻ uể oải, tiến lại gần.
Họ
nhìn nhau qua hàng dâm bụt.
Thùy
Linh thì thầm:
-
Anh...
Hoàng
dấu nụ cười sung sướng vào những chiếc lá dâm bụt đẫm nước mưa. Anh thò tay qua
hàng rào, đặt nhẹ lên bờ vai tròn lẳn của Thùy Linh. Thùy Linh thở mạnh, cô vội
vàng gỡ tay Hoàng. Hoàng không chịu, thò luôn tay kia kéo Thùy Linh ép sát hàng
rào. Một cái hôn ướt đẫm nước mưa đặt lên má Thùy Linh...
-
Đừng... anh, buông ra... ôi chết...
Vẫn
có hàng dâm bụt ngăn cách. Hoàng rướn người qua hàng rào, điên cuồng đặt
môi
mình lên bất cứ nơi nào trên cơ thể Thùy Linh. Những chiếc hôn ướt đẫm nước mưa
rồi xuống tới tấp. Hàng rào dâm bụt rung lên bần bật...
Thùy
Linh rứt Hoàng ra, hổn hển:
-
Anh về đi, về ngay đi. Sáng mai Thùy Linh đến.
-
Có chuyện gì thế?
Hoàng
hỏi, cố gắng quan sát vẻ mặt của Thùy Linh nhưng không thấy gì cả, tối quá.
Thùy Linh úp mặt vào đám lá cây dâm bụt, nói như khóc:
-
Bố mẹ Thùy Linh... cãi nhau.
-
Thế à? Có chú Tư à?
-
Khô-ông... anh về đi. Về đi, nhé!
Thùy
Linh chạy vào nhà, được một đoạn cô quay ngoắt lại ra hiệu cho Hoàng "lui
binh". Hoàng đứng ngớ ra một lát rồi tắc lưỡi về.
Mưa
đã ngớt. Chỉ còn những đám mưa rây bột bay phơ phất. Thốt nhiên Hoàng thấy
lạnh, lạnh và buồn. Có thể đây là dấu hiệu đầu tiên báo cho Hoàng biết từ nay
anh đừng có hòng chơi với Thùy Linh được nữa. Từ nay họ bắt đầu phải lén lút,
lén lút như bao nhiêu mối tình ở thị
trấn đã lén lút. Người ta có thể đứng đái thản nhiên giữa đường vẫn không việc
gì còn như nắm tay, khoác tay nhau, hôn nhau thì thật chướng tai gai mắt, dư
luận xã hội phản đối ầm ầm. Hoàng khẽ thở dài. Vì sao thế nhỉ? Không hiểu vì
sao. Cũng có thể Thùy Linh nói thật, bố mẹ cô đang cãi nhau, một cuộc cãi cọ dữ
dội nên Thùy Linh không muốn Hoàng chứng kiến. Không phải như vậy! Cô và Hoàng
đã chứng kiến hàng chục lần cãi cọ của họ, từ ngày Họa sĩ Tư xuất hiện ở thị
trấn, nhàm tai đến mức trong khi họ suýt chồm vào nhau, phun vào nhau những lời
độc địa thì Hoàng và Thùy Linh vẫn có thể chơi đùa thoải mái dưới bếp mà không
có vấn đề gì xảy ra cả. Không phải như vậy, đúng rồi, không phải như vậy! Hẳn
là có một bí mật nào đã ngăn trở Hoàng không được bước qua cổng nhà Thùy Linh.
Ý nghĩ ấy vụt đến làm Hoàng đứng khựng lại, quyết định dứt khoát phải khám phá
cho ra bí mật kia. Tuổi thơ đã hết nhưng quán tính của nó thì vẫn còn, đó là lý
do đẩy Hoàng vòng dọc theo hàng cây xoan, nhảy đại qua mấy cột thép gai mắt
cáo, rón rén đi về phía bếp...
Cạch!
Cạch!
Tim
Hoàng thắt lại khi nghe tiếng kẹt cửa. Anh nằm ép sát xuống đám lá khoai trồng
cạnh bếp. Đại úy Thìn mở cửa đi ra, đứng dựa vào vách liếp, vén quần đái. Hoàng
thấy lạnh run lên vì sợ. Nếu Đại úy Thìn tóm cổ được Hoàng lúc này, lập tức ông
sẽ qui cho anh thuộc tầng lớp đối kháng với chủ nghĩa xã hội, tức là thằng ăn
cắp. May thay, Đại úy không thấy gì cả, Hoàng chỉ phải chịu đựng vòi nước nóng
của ông rót thẳng vào người anh. Càng hay, anh đang ướt như chuột, đang rét run
lên...
Cạch!
Cạch!
Đại
úy Thìn khuất bóng sau cánh cửa. Hú vía! Hoàng nhổm dậy, mon men về phía cửa sổ
khép hờ ở nhà chính. Trong nhà không ai lên tiếng, im lặng như một nấm mồ.
Hoàng ghé mắt qua cửa sổ, liên láo ngó quanh.
Thùy
Linh nằm sấp trên chiếc ghế dài bắc ngang ngạch cửa, hai tay buông thõng, tóc
xõa sát đất, mông và ngực phập phồng, hình như đang tấm tức khóc. Đại úy Thìn
ngồi vắt chân chữ ngũ, thong thả nhả từng cuộn khói thuốc về phía cửa sổ, chỗ
Hoàng đang nhìn. Không thấy mẹ Thùy Linh
đâu. "Có lẽ thím ấy đang ngủ" - Hoàng tiến thêm vài bước, đến sát cửa
sổ bên kia, hy vọng có thể nhìn thấy mặt Thùy Linh. "Không biết Thùy Linh
có khóc thật không?". Cửa sổ này cao hơn tầm mắt buộc Hoàng phải nhón
chân. Lúc đầu cũng chỉ thấy mông và ngực Thùy Linh phập phồng và Đại úy Thìn đã
đổi thế chân thong thả nhổ râu, nhưng vài chục giây sau Hoàng kinh hoàng nhìn
thấy một tấm thân trần truồng bị trói chặt vào cột nhà, đầu tóc rũ xuống. Trống
ngực Hoàng đập dữ dội, anh run bắn người, dí sát mặt vào cửa sổ.
Người
bị trói vào cột nhà chính là thím Hoa. Lần đầu tiên Hoàng thấy một người đàn bà
trần truồng, một khối thịt trắng muốt đang chảy xuống im lìm như xác chết vừa
dựng dậy. Hoàng rùng mình, mồ hôi thấm ướt áo. Anh hoàn toàn bị thôi miên khi
bắt gặp tấm thân ấy, không đứt ra được, mặc dù anh đang run lên vì kinh hồn
sảng vía chứ không phải vì thích thú.
Thím
Hoa bị trói cứng ngắc vào cột nhà đã rất lâu, đến giờ thím kiệt sức, thoi thóp
thở. Đại úy Thìn vẫn thong thả nhổ râu, lúc lúc lại liếc sang thím, nhếch mép
cười. Thùy Linh chợt uể oải ngồi dậy, đờ đẫn nhìn hai người, mặt mày trắng
bạch. Cô mệt mỏi tiến về phía thím Hoa, run run sờ vào những chỗ có dây néo
buộc trên cơ thể thím.
-
Rụt tay ra!
Đại
úy Thìn quát bằng giọng ồm ồm, chậm rãi. Thùy Linh rụt vội tay, quay ngoắt về
phía Đại úy. Cô chạy tới, quỳ xuống chân ông, ngước mặt nói lắp bắp:
-
Ba tha cho mẹ con. Con lạy ba, ba ơi!
Thím
Hoa bất thần ngẩng đầu lên, mắt đỏ rực:
-
Đừng làm thế Thùy Linh, hèn!...
Đại
úy ngửa cổ cười, giọng cười như khóc. Bỗng nhiên thím Hoa lắc lư, lắc lư và đổ
xuống nền nhà. Hoàng há mồm, trợn mắt: thật là kinh khủng! Thật là kinh khủng!
- Phía sau lưng thím là một người nữa, cũng trần truồng, bị cột dính lưng thím.
Thì ra không phải là "cột nhà" mà là một người đàn ông, thoáng nhìn
đã biết chắc là Họa sĩ Tư, vì khuất bóng nên lúc đầu Hoàng không nhận ra. Hai
người cựa quậy dưới chân Đại úy. Thùy Linh rú lên, nhào tới nức nở khóc:
-
Buông ra! Buông mẹ tôi ra!
Và
cô vừa khóc vừa cắn vào sợi dây thừng, day day. Đại úy Thìn ngửa cổ cười lớn,
lần này ông cười dài hơn, vẫn giọng cười như khóc. Có lẽ Đại úy đang nức nở
khóc chứ không phải cười, cười gì mà thê thảm thế.
*
* *
Lần
đầu tiên Đại úy tự hủy bỏ lịch trình làm việc từ chiều thứ Bảy đến tối Chủ nhật
của
mình. Ông nằm bất động trên giường suốt buổi sáng Chủ nhật.
Đại
úy không thể tin được đêm hôm qua (cái đêm ghê rợn mà Hoàng đã chứng kiến) vợ
ông đã lăn lộn trên chính giường ngủ do chính đồng lương đại úy của ông tạo ra
với Họa sĩ Tư, em cùng cha khác mẹ của ông. "Thật không có một lý luận
nào, một khoa học nào có thể giải thích nổi" - Đại úy ngẫm nghĩ: "Giá
như ngày xưa, dưới chế độ cũ, người ta chẳng có lý tưởng mả mẹ nào để mà theo
đuổi, thì cái việc loạn luân hẳn cũng chỉ là trò tiêu dao ngày tháng. Đằng này,
người ta được tắm trong bầu không khí trong sạch như thế, lại được lý tưởng tốt
đẹp dưới chế độ mới sáng choang là vậy rọi sáng khắp nơi, thế mà chúng nó cứ
lăn xả vào nhau như những con lợn ngu xuẩn. Chúng nó dường như chỉ biết ăn và
đ. Đồ khốn nạn!" Đại úy ngẫm nghĩ rất lâu, "viết" ra trong đầu
cả một bài dài, câu kéo chỉnh chu về sự sa đọa của vợ ông... Đấy cũng chính là
điều nhục nhã nhất đời ông, kể từ ngày Đại úy vác đại đao đi "trừ gian
diệt ác". Thế là "phương án số 2", cái phương án khốn kiếp mà
Đại úy đã dự trù và cảm thấy sợ, một nỗi run
sợ âm thầm len lỏi trong ngực ông, bây giờ đã xảy ra. Nó xảy ra sớm hơn thời
gian ông trù liệu và khốn nạn hơn cả những gì ông tưởng tượng.
Khi
Đại úy nhảy vào buồng thì thím Hoa vào Họa sĩ Tư vừa chấm dứt tức thì cuộc giao
hoan của họ. Vẫn còn nguyên hiện trường, kể cả thân xác lõa lồ "như những
còn lợn ngu xuẩn" của họ.
-
Ái!- Đại úy rú lên.
Thím
Hoa lập tức lùi sâu vào góc buồng, co ro như con vượn bị nhúng nước. Họa sĩ
trợn mắt, há mồm, sợ đến mức toàn thân co cứng, tái nhợt.
-
Đồ chó chết, đồ khốn nạn! Đồ chó chết!...
Đại
úy lao vào hai người, đấm đá túi bụi. Hai người bị những cú đấm trời giáng của
Đại úy văng ra mỗi người một góc. Một cái răng của Họa sĩ văng ra, máu mồm chảy
ồng ộc. Không ai dám chống cự, cũng không ai kêu lên một tiếng nào. Đại úy đấm
vào hai người như đấm vào các xác chết...
Đại
úy hầm hầm rút dây thừng, kéo sát hai người lại, ép dính lưng nhau, trói chặt.
Vừa trói ông vừa chửi rủa, nước bọt văng tung tóe. Xong, ông để mặc hai người
trần như nhộng đứng như trời trồng giữa nhà, tìm nước uống. Ông uống một cốc
nước to, dứt mạch, ông dằn mạnh cốc xuống bàn thở hồng hộc. Bây giờ Đại úy mới
thấm mệt, ông thở dồn dập, mồ hôi chảy ướt dầm dề ngực áo.
Lúc
này, cho đến tận lúc này, thím Hoa mới nhớ những gì đã xảy ra vừa qua đối với
thím. Hình như thím đã gọi Họa sĩ vào, họ ngồi bên nhau vừa nói vừa hát khua
chân múa tay như những con vượn bị tách khỏi bầy lâu ngày mới gặp nhau. Hình
như không phải như thế. Hình như thím đã lăn xả vào Họa sĩ Tư trong một nỗi đau
đớn tuyệt vọng hoặc nỗi thèm khát dục vọng bốc cháy đến độ toàn thân thím co
giật. Hình như không phải như thế. Hình như họ chẳng có tội gì cả. Họ không làm
gì nên tội, họ vẫn là "chị em", dù dối trá nhưng vẫn là "chị
em" và chưa có hành vi nào vượt ra ngoài khung qui ước ấy...
Khi
cú đấm cuối cùng của Đại úy dáng vào mặt thím làm cho thím có cảm giác mình
không còn là mình nữa, đã vỡ ra trăm vạn mảnh, thì thím lơ mơ nhớ lại. Tất cả
đều lơ mơ, tất cả đều vỡ ra, quay tít mù trong thím...
-
Chúng mày không phải là người! Đồ lợn!
Đại
úy chửi vào mặt hai người và nghiến răng cuộn từng vòng dây thừng quàng qua hai
người, siết chặt. Họa sĩ Tư bị những cú đấm trời giáng của Đại úy, đã rữa ra
như xác mắm, chết lịm trong dây trói. Chỉ còn thím Hoa bỗng dưng tỉnh lại, thím
nghe rõ, nghe đủ hết những gì Đại úy phun vào mặt hai người. Thím thấy rét, rét
run lên, thấm vào tận máu. Các vết thương do những cú đấm Đại úy gây ra trên
thân xác thím bắt đầu co giật, tạo ra những luồng điện li ti chạy rần rần khắp
nơi. Thím nhìn xuống, mang máng nhớ hình như mình đã trần truồng như thế này từ
lâu rồi, quá lâu rồi, từ năm kỉa năm kia hoặc lâu hơn, có khi từ thủa lọt lòng
đến giờ cũng nên chứ không phải vừa mới xảy ra chưa đầy một tiếng đồng hồ...
Đại
úy lừ lừ đi lại, trừng trừng nhìn hai người, gầm gừ:
-
Lý tưởng của các người thật kinh tởm! Quá kinh tởm! Ăn và đ., chấm hết! Đồ khốn
kiếp.
Đầu
tiên tai thím ù lên, chẳng nghe gì cả, nhưng sau đó, vì Đại úy gầm gừ quá nhiều
lần nên thím nghe đủ hết và hiểu Đại úy đang nói gì. "Không phải thế đâu,
đồ đần độn!", thím định hét lên như thế nhưng ghìm lại được. Vừa ghìm lại
được tiếng hét ấy thì người thím bỗng nóng rực lên. Và buồn cười. Ối chao ôi,
thím buồn cười quá. Nhìn mặt Đại úy đang đỏ nhừ, nham nhở những nốt sần trông
chẳng khác mấy miếng cơm cháy, thím chực cười trào. Thím ngẩng lên nhìn xoáy
vào mắt Đại úy với vẻ kiêu hãnh hiếm thấy. Đại úy bối rối, cố gắng tránh ánh
mắt của thím nhưng không được, bèn chống trả lại bằng cái nhìn giễu cợt, thỉnh
thoảng nhếch mép cười, giọng cười như khóc. Ông ngồi xuống ghế, thong thả nhổ
râu, thỉnh thoảng lại liếc sang thím Hoa. Ấy là lúc Hoàng đang đứng phía sau
cửa sổ nhìn trộm vào. Hoàng không biết cái vẻ ung dung pha một chút đắc thắng
của Đại úy hoàn toàn do ông cố tạo ra để giấu giếm nỗi sợ hãi của ông bỗng chốc
lại dâng lên, quay cuồng. Đại úy đang run sợ, đó là một sự thật. Ông mơ hồ nhận
thấy mình hoặc thất lý hoặc độc ác đối với cặp người đang ở trong những cuộn
dây thừng kia. Đáng lẽ phải chạy đến hối hả mở trói cho hai người, vừa mở vừa
lắp bắp nói những lời ân hận, hoặc cứ nói quanh co, nói lúng búng không ra câu
gì cũng được, đặng cứu vãn những cú đấm trời giáng, những câu chửi bẩn thỉu và
hành động cuối cùng ông đã làm: trói trần truồng cả hai người trước mặt đứa con
gái, thì ông lại ngồi thong thả nhổ râu với vẻ đắc thắng bẩn thỉu. Từ thuở vác
đại đao tạm biệt quê nhà ra đi, vượt qua một trăm hai mươi sáu trận đánh long trời
lở đất với giặc Pháp, bao giờ ông cũng cố giành và rốt cuộc giành được phần
thắng, ngay cả những hoàn cảnh cam go nhất. Vậy là ông ngồi rung đùi, thong thả
nhổ râu, tới khi đứa con gái ông hét vang lên: "Buông ra! Buông mẹ tôi
ra!" thì tim ông đập hoảng loạn. Ông ngửa cổ cười, lần này cười dài hơn,
vẫn giọng cười như khóc đã làm Hoàng rụng rời chân tay, nghĩ là Đại úy đang nức
nở khóc thì đúng hơn, cười gì mà thê thảm thế! Vòng dây trói đã được Thùy Linh
tháo tung. Đại úy không nói gì, chỉ ngửa cổ cười.
Một
giờ sau tất cả như không có gì xảy ra. Họa sĩ Tư mặc xong áo quần, nhổ một bãi
nước bọt lẫn máu mồm trước mặt Đại úy, quay gót. Thím Hoa vào buồng nằm dài.
Quá nửa đêm... gà gáy... Đại úy vẫn ngồi nhổ râu, mồ hôi chảy đầm đìa. Ông đã
nhận ra, mỗi lúc mỗi sâu sắc thêm, tính chất sai lầm về những ứng xử của mình
đối với vợ ông và Họa sĩ Tư. Nếu chỉ riêng Họa sĩ không thôi, Đại úy sẽ chẳng
ân hận gì sất. Đã từ lâu ông vẫn coi Họa sĩ như một đối tượng của chuyên chính
vô sản. Chưa bao giờ ông nhận Họa sĩ là em mình, "nó ở bên kia giới
tuyến" - nhiều lần ông công bố thế với mọi người. Đến lúc này ông vẫn giữ
nguyên lập trường, không một xê dịch nhỏ. Nhưng với thím Hoa thì khác. Đó là vợ
ông. Trước khi thành vợ ông là người yêu của ông. Trước đó nữa là người đẹp mà
ông ngưỡng mộ. Vậy mà ông đã xử sự với thím còn tệ hơn xử sự một tên tù binh
Pháp. Đây là phép so sánh mà Đại úy đã nghĩ tới. Càng nghĩ tới càng đau lòng.
Đại
úy nghĩ:
-
Mình không xứng đáng là một người Cộng sản. Người Cộng sản không những biết kiên
quyết đấu tranh mà phải biết bao dung độ lượng.
Đại
úy lại nghĩ:
-
Biết nhận ra sai lầm và khắc phục sai lầm là bản chất của người Đảng viên.
Đại
úy nhìn vói ra cửa sổ, cố tìm ở đâu đó một tia sáng trong cái khối đen đặc đang
tràn trề khắp nơi. Ông thấy quá mệt mỏi, chán nản.
Gà
gáy, lại gà gáy. Trời đã mờ mờ sáng.
Đại
úy chợt nghe trong buồng thím Hoa đang trở mình. "Hình như cô ấy vẫn không
ngủ" - Ông nghĩ thầm và rón rén đi vào. Ông đi như dò mìn, chỉ khác khi dò
mìn ông không run còn bây giờ thì trống ngực ông đập thình thịch. Ông ngồi
xuống giường. Thím Hoa đang nằm bất động, hai tay duỗi thẳng, tóc xõa ra.
Ông
nín thở đặt nhẹ tay lên lưng thím.
"Rất
có thể cô ấy sẽ chồm dậy và chửi vào mặt mình".
Ông
xoa lướt trên tấm lưng mềm của thím, từ từ... Từ từ...
-
"Phải làm lành, dù cô ấy có chống cự hoặc chửi bới"
Ông
ấn tay nặng hơn lên lưng thím, từ từ, rất từ từ đưa lên bả vai, xoa xoa và bóp
nhẹ vào bờ vai, rồi dần dần đưa tay trở ngược lại phía lưng, phía dưới lưng và
để nguyên bàn tay thô tháp của mình ở chỗ đó. Đại úy cảm thấy nghẹt thở, ông
hồi hộp chờ đợi phản ứng của thím Hoa.
-
"Nếu cô ấy chồm dậy? Lúc ấy mình sẽ làm gì? - Sẽ im lặng và ôm ghì
lấy".
Đại
úy từ từ, rất từ từ nằm xuống, nhẹ nhàng kéo thím Hoa sát vào lòng, cố lắng
nghe nhịp thở của thím.
-
"Cô ấy chưa ngủ đâu. Cô ấy biết đấy!..."
Vẫn
không có một phản ứng nhỏ nào của thím. Đại úy thấy yên tâm, tuy vậy ông hãy
còn sờ sợ. Ông đặt tay lên cổ thím để thăm dò, tính toán mãi không biết đã đến
lúc thò tay xuống ngực được chưa. Mười phút sau, cầm chắc là thím Hoa đang
thức, đang dịu dàng trong lòng tay ông như mọi bận vẫn dịu dàng, Đại úy thấy
vui hẳn, thoải mái hẳn rồi hăng hái hẳn...
-
"Thì ra cô ấy vẫn yêu mình. Không yêu mà im lặng thế sao?".
Đại
úy đặt cái hôn đầu tiên lên trán thím, lắng lại để thăm dò.
-
"Vẫn im lặng!"
Đại
úy thấy thích quá, vui quá và hôn hôn hôn... cho đến lúc ông chuẩn bị nhập vào
trong một niềm hứng thú của một đứa trẻ vừa được tha thứ lỗi lầm thì thím bỗng
bật cong người, toàn thân co rúm. Một tiếng cười ré lên khiến Đại úy giật mình
hoảng hốt. Thím Hoa nằm rúm ró trong buồng tối, cười nghiêng ngả như người mắc
chứng tâm thần. Tiếng cười cao vói,
chua lòm triền miên tưởng không bao giờ dứt. Không nói gì hết, không phản ứng
gì hết, chỉ cười.
-
"Thật là kinh khủng!"
Đại
úy ngồi dậy, không biết làm gì, nói gì.
-
"Thật là kinh khủng!"
Đại
úy chạy ra ngoài sân. Vẫn tiếng cười cao vói, chua lòm của thím đập vào gáy ông
nóng rực. Đại úy đi lại luẩn quẩn trong sân rồi tiến thẳng ra ngõ lúc nào ông
cũng không nhớ nữa. Ông đi loạng choạng, bước vô định trong ánh sáng lờ mờ của
buổi rạng sáng. Tiếng cười bay vút lên, "hé hé he he he..." vượt
trước Đại úy, vòng trở lại đập dữ dội vào ngực ông. Ông ù tai, và hoa mắt, ông
chẳng thấy gì cả. Đi và đi và đi và chạy. Ông ù té chạy.
-
Hé hé hé he he he!...
Đại
úy chạy mù mịt giữa đám cây rưới trước mặt sông Linh. Chưa bao giờ ông bỏ chạy
trong một trạng thái hoảng sợ đến cực điểm như thế này. Ông cứ chạy rối mù
trong đám cây rưới. Bác Cả Rí xách chùm lươn đứng ở phía sau bờ đất cao nhóng cổ
hỏi:
-
Ấy,
bác Thìn đi đâu sớm thế?
Đại
úy đứng sững. "Đi đâu nhỉ?", ông không biết ai vừa hỏi mình hay chính
nỗi sợ hãi của ông đang lên
tiếng.
-
Gớm, bác Thìn làm gì mà đứng đực ra thế? Bác không thấy em à? - Bác Cả Rí tiến
đến, nói to.
-
À, bác Cả Rí! - Đại úy thở phào, ngoái đầu lại. Đại úy nheo mắt nhìn bác Cả Rí,
cố nhớ một điều gì đó, điều gì hình như ông vừa quên. Cái bóng bác Cả Rí bỗng
nhỏ lại, quay tít mù trước mắt ông. Đại úy quờ một nhành cây rưới để tựa vào
đấy, quờ mãi không thấy đâu.
- Ối! Bác Thìn làm sao thế?
Bác Cả Rí vứt xâu lươn chạy đến, cỗ đỡ lấy
thân hình hộ pháp của Đại úy sắp đổ xuống.
- À, không...
Đại úy tỉnh giấc, mệt mỏi nhìn bác Cả Rí
đang mắm môi mắm lợi chống cả hai tay vào lưng ông.
- Tôi có việc gì đâu... Mệt quá, định ra
sông thở hít một chút cho khỏe người.
Đại
úy nói, giọng tươi tỉnh trở lại. Không chào bác Cả Rí nửa câu, ông vội vã quay
về.
-
"Quái lạ, tại sao mình lại chạy ra đây?"
Đại
úy không nghĩ ra, không cách gì nghĩ ra, mồ hôi trán chảy đầm đìa...
Ngôi
nhà Đại úy đã yên tĩnh trở lại. Đại úy bước vào buồng. Hai mẹ con thím Hoa đang
ôm nhau ngủ ngon lành như không hề xảy ra việc gì từ tối hôm qua đến giờ. Đại
úy ngã lăn vào giường đặt trong bếp. Ông nằm lịm đi cho tới trưa, quá trưa xế
chiều vẫn không dậy được. Đại úy đốt thuốc liên tục, hết điếu này đến điếu
khác, càng hút càng thấy thèm. Ngay khi đang hút dở điếu này ông đã tính cần
phải châm ngay điếu khác. Thèm quá đi mất, thèm thuốc chết đi được. Gớm, sao mà
thèm lạ lùng cái thứ thuốc Tam Đảo ngày nào ông cũng hút đến thế.
*
* *
Đến
lượt Hoàng đã nhận ra cái mà người ta gọi là tình yêu thật khủng khiếp. Mấy
ngày sau cái đêm ghê rợn ấy Hoàng vẫn còn thấy lạnh xương sống. Trong khi đó
dân thị trấn có vẻ hoan hỉ hẳn lên. Thì cũng phải có một chuyện để mà bàn, lật
ngược lật xuôi "các vấn đề", thì thào thì thào... và ôm bụng cười ha
hả, nếu không thì buồn chết đi được. Gạo vẫn một đồng mười hai lon, thịt vẫn
hai đồng một ký, tôm to vẫn ba đồng một rổ... bất di bất dịch. Tình hình
"trật tự an ninh và an toàn xã
hội" ngoài mấy mụ ăn trộm vặt đều chẳng có gì đáng kể, các đồn đại về việc
Mỹ sẽ đem máy bay ra bắn phá miền Bắc nói mãi rồi cũng chán. Thế là vớ được chuyện
này...
-
Ối trời đất ơi, hủ hóa!
Bác
Cả Rí xách một xâu lươn từ chân đê đi xộc vào quán thịt chó Cule, kêu ầm lên.
Cule đứng đực ra, chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, vội hỏi:
-
Bác nói cái gì mà kinh thế? Tôi cứ nghe đến hủ hóa là lạnh cả người, da gà nổi
rầm rộ ở các chỗ hiểm!
Bác
Cả Rí nháy mắt với Cule, cười:
-
Chú ý phía đũng quần, có vấn đề đấy!
Rồi
bác ngồi vắt chân chữ ngũ, đập bàn:
-
Cho một đĩa thịt chó nướng! Thêm cho tôi mấy miếng dồi chó loại đặc biệt!
Chuyện này kinh lắm!
-
Xong ngay! Xong ngay!
Cule
đập hai tay vào mông, nhịp nhịp. Ông đi thẳng vào bếp, lát sau hăm hở bưng ra
một đĩa to dồi chó và hai đĩa nhỏ thịt chó nướng.
-
Có đây! Có đây! Có đủ hết: thịt chó nướng, dồi chó loại đặc biệt! Bác ưa gì em
xin hầu. Em là em háo hức chuyện hủ hóa lắm.
Thực
ra, bác Cả Rí chỉ mới nghe loáng thoáng về "vụ thím Hoa và Họa sĩ Tư"
qua mồm một người thân cận của Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy. Chủ tịch thị trấn
mới là người chính thức được Đại úy Thìn "phổ biến". Dĩ nhiên là
"phổ biến nội bộ".
Lần
đầu tiên Đại úy có nhu cầu bộc lộ nội tâm của mình. Xưa nay thì không, tuyệt
đối không. Người ta luôn thấy ông ở thế hừng hực tiến công: Nói - làm - bàn bạc
- cãi nhau - làm... cứ vậy cho đến phút này ông mới thấy cô đơn. Nói với ai? Ai
sẽ là người đủ tin cậy giữ kín chuyện này và thông cảm sâu sắc nỗi đau khổ của
ông? Hầu hết những người quen biết ông, hay đi lại thăm hỏi ông đều nằm trong
danh sách hai trăm mười tám người gồm những người có lý lịch xấu hoặc thuộc
tầng lớp tiểu tư sản thành thị,
các trí thức ăn nói ngang ngạnh, mất lập trường, có tư tưởng chống đối Chủ
nghĩa Xã hội. Họ đang nằm trong kế hoạch phong tỏa và bắt giữ khi cần thiết.
Ngay cả Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, tất nhiên không thuộc vào danh sách hai
trăm mười tám người kia, cũng là đối tượng Đại úy đang theo dõi. Chưa có bằng
chứng đích xác về "khoảng thời gian đen" - một tháng ông Thanh bị
địch bắt và nhanh chóng thả ra, không có trong hồ sơ lý lịch - nhưng Đại úy
tiếp tục giao nhiệm vụ cho mình truy xét đến tận cùng việc này không thể bỏ qua
được. Gần đây, Đại úy mới quyết định cùng với Chủ tịch Lê Đức Huy phản kháng
ông Thanh. Đấy là đơn khiếu tố gửi lên Ban tổ chức tỉnh ủy về việc Bí thư huyện
ủy Trần Văn Thanh tự ý thả Họa sĩ Tư - phần tử chống Chủ nghĩa Xã hội - không
cần cứu xét, không cần nghe cấp dưới. Trong đơn khiếu tố, Đại úy lưu ý với Ban
tổ chức tỉnh ủy về mối quan hệ của Họa sĩ Tư và Bí thư huyện ủy thời kháng
Pháp. Đại úy còn thả lửng một câu: "Theo một vài
nguồn
tin chưa được kiểm chứng, chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu, có một khoảng
thời gian ngắn vào năm 1947, đồng chí Thanh bị địch bắt nhưng không rõ vì lý do
gì địch nhanh chóng thả ra..."
Đến
nay Ban tổ chức tỉnh ủy chưa trả lời về việc này. Ông và Chủ tịch thị trấn Lê
Đức Huy đang chờ đợi... Mặc dù vẫn thường đàm đạo với ông Thanh về chuyện thời
sự trong và ngoài nước, các vấn đề nóng bỏng của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã
hội ở huyện nhà, Đại úy vẫn chú ý các chi tiết mật, không bao giờ tiết lộ.
Vậy
là chỉ có ông Huy, con người trong sạch, hiền lành, có một lý lịch rõ ràng: ba
đời cùng khổ, là người đáng tin cậy nhất để ông có thể bộc lộ nỗi đau khổ thầm
kín của mình. Nắng chiều dọi thẳng vào mặt Đại úy, nóng rực. Ông chợt thấy đói
và khát, y như đang hành quân ở quãng rừng gian truân nhất. Đôi lần ông muốn
ngồi xoạp xuống, lăn xoài ra vệ cỏ cạnh đường.
Chủ
tịch thị trấn Lê Đức Huy đón Đại úy từ ngoài ngõ. Thoáng thấy sắc mặt Đại úy vẻ
khác thường, ông vội vàng chạy tới. Đại úy gần như ngã hẳn vào vai ông, thở
dốc. Chủ tịch thị trấn dìu Đại úy vào nhà...
-
Cho tôi xin ca nước. - Đại úy nói run run.
-
Bác làm sao thế? - Chủ tich thị trấn lo lắng hỏi.
-
Cho tôi xin ca nước.
-
Vâng.
-
Có ai ở nhà không?
-
Thưa không.
-
Anh ở nhà một mình chứ?
-
Vâng.
-
Không có ai thật à?
-
Thưa thật.
Ông
Huy trố mắt nhìn thần sắc của Đại úy: nhợt nhạt tựa một người chết đuối. Tu
sạch ca nước, Đại úy ngồi úp mặt vào tay hồi lâu mới từ từ ngước lên. Ông nói,
phều phào đứt quãng như người hấp hối.
Cuối cùng Chủ tịch thị trấn cũng đã hiểu ra. Thất kinh! Thất kinh! Không ngờ sự
thể lại ghê gớm như vậy!
Sau khi tiễn Đại úy ra về, có hứa sẽ giữ kín
chuyện này, Chủ tịch thị trấn đi lại quanh nhà nghĩ ngợi rất lung, thỉnh thoảng
rùng mình, rụt cổ lại. Chủ tịch thị trấn nghĩ: "Ấy là vì Đại úy hiền lành,
lại là người cộng sản chứ nếu ở chế độ cũ thì Họa sĩ Tư cũng sẽ bị nhúng đầu
vào nồi cám lợn. Chứ không à? Kinh thật! Kinh thật!" Chủ tịch thị trấn nhớ
lại cái hồi cách đây gần một năm ông chui vào túp lều của Họa sĩ Tư, giở tung
sáu mươi tư bức tranh của Họa sĩ, nhìn đi ngắm lại các bức tranh vẽ những mặt
người méo mó, những con bò chạng háng choán cả bức tranh, những đứa trẻ mặt đầy
nếp nhăn và lún phún ria mép, đặc biệt là những bức tranh vẽ đàn bà trần
truồng, những người đàn bà không có đầu, loạn xạ các kiểu đứng ngồi... và nghĩ:
"Mình nhầm! Đếch phải của đàn bà hàng tỉnh, đích thị là của con mẹ ấy rồi!
Nó vẽ không có đầu là để giấu tung tích, có thế thôi!".
"Con
mẹ ấy" tức thím Hoa, Chủ tịch thị trấn tin như vậy. Ông nhắm mắt lại, cố
nhớ xem Họa sĩ đã vẽ như thế nào nhưng chịu - "Mẹ khỉ! Mình quên béng đi
mất! Hôm nào phải xem lại!".
Vừa
lúc người bạn nối khố của ông đến chơi, thường là đến xin thuốc lào và kiếm một
chén rượu rắn. Chủ tịch thị trấn túm lấy ngực bạn mình, hấp tấp nói:
-
Này, có chuyện này kinh lắm!
Vừa
nói xong Chủ tịch thị trấn đã thấy mình lỡ mồm.
-
Chuyện gì thế? - Người bạn của ông liền dỏng tai lên.
Đã
thế thôi không giấu nữa. Chẳng qua là chuyện cá nhân, đếch phải chuyện cơ quan
đoàn thể, giấu làm gì cho nặng bụng.
-
Kinh lắm! Kinh lắm! Nhưng mà bác cố mà giữ cho tôi, chuyện "uy tính"
đó nghe! - Chủ tịch thị trấn làm bộ nghiêm trọng.
-
Ối giời ơi, bác phải dặn tôi chuyện đó sao?
-
Ờ, là dặn thế.
Người
bạn ông ra mặt giận:
-
Tôi có phải con nít nữa đâu.
Chủ
tịch thị trấn gãi đầu, cười ngượng nghịu vì đã trót nói một câu khinh thường
bạn. Ông bắt đầu thì thào... Nghe xong, người bạn ông vỗ đùi đánh đét, kêu lớn:
-
Tôi đã bảo mà! Tàn dư của xã hội phong kiến đấy. Coi chừng! Coi chừng! Hỏng mẹ
nó Chủ nghĩa Xã hội như chơi đó bác ơi!
-
Suỵt.
Chủ
tịch thị trấn vội vàng bịt miệng bạn mình, dặn thêm:
-
Chuyện đâu để đấy, bác nghe!
-
Chứ sao!
Người
bạn Chủ tịch thị trấn phủi đít quần ra về, quên cả việc hỏi xin một chén rượu
rắn. Nửa giờ sau, vô phúc cho ông Chủ tịch thị trấn, người bạn ông vớ phải bác
Cả Rí.
-
Tôi kể cho bác nghe chuyện này, cơ mật lắm! Nếu bác để lộ cho ai biết thì trời
đánh bác chứ không phải đánh tôi đâu nhé!
Người
bạn Chủ tich thị trấn nhìn bác Cả Rí với bộ mặt nghiêm trọng.
-
Chết chửa! Bác khinh tôi quá nhỉ? - Bác Cả Rí mát mẻ - Gần năm sáu bảy thứ tóc
trên đầu mà bác còn dặn tôi thế?
-
Ấy là nói vậy!
-
Ờ...
Miệng
người này dính vào tai người kia. Bác Cả Rí "ờ" và gật gật,
"ờ" và gật gật và kêu to:
-
Ôi giời ơi, hủ hóa!
Thế
là đến sớm hôm sau bác Cả Rí xách một xâu lươn xộc thẳng vào quán thịt chó
Cule, "ném vào mặt" Cule tin trời đánh này, buộc Cule phải mất không một
đĩa dồi chó loại đặc biệt. Cule đứng ghé sát mặt bác, ghé sát vào, ghé sát nữa
vào miệng ngậy mùi thịt chó của bác Cả Rí để
mà nghe. Bác Cả Rí thì thầm như vầy, như vầy... Cule mắt hấp háy, mồm há dần,
cuối cùng ngửa mặt lên trời mà than rằng:
-
Đến vợ Đại úy mà chúng nó chẳng tha! Khổ thay! Thế thì vợ con bọn cần lao chúng
ta là cái mả mẹ gì, hả? Thậm nguy! Thậm nguy!
Bác
Cả Rí nhắc lại:
-
Chú ý phía đũng quần.
Đoạn,
bác cúi chào quán thịt chó, xách xâu lươn đi thẳng. Ngày hôm sau, hôm sau nữa,
dân thị trấn có thêm chuyện để bàn, lật ngược lật xuôi "các vấn đề",
thì thào thì thào và ôm bụng cười ha hả.
Chương
năm
Kể
từ đêm bị Đại úy Thìn bắt quả tang và chịu đựng những quả đấm trời giáng của
Đại úy đến nay đã tròn ba tháng, Họa sĩ Tư không một lần bước chân đến nhà Đại
úy, không một lần thấy bóng thím Hoa. Họa sĩ sống ru rú trong túp lều lá mía
ngày này qua tháng khác. Luôn luôn Họa sĩ thấy không an tâm. Mỗi bận ngoảnh mặt
về phía Tây thị trấn, nom thấy hai ngọn cây dừa trước cổng nhà Đại úy rung
rung, anh thấy ngực mình nhói đau, có khi nhức buốt mãi. Ngày nào anh cũng thấy
cần phải làm một việc gì đó, đi một nơi nào đó hoặc nói một điều gì đó với ai
đó. Chẳng khi nào thực hiện được, lại ngồi hối tiếc về một ngày vô tích sự đã
trôi qua. Đã trôi qua biết bao ngày thế này rồi? Họa sĩ lẩm nhẩm đếm, càng đếm
càng mù mịt, lại ngồi đừ ra mà nuối tiếc. Tại sao mình không làm được một việc
gì cho có ích, không có ích cho tất cả thì cũng có ích cho một người? Họa sĩ tự
hỏi. Hỏi chỉ để ngồi ngáp dài, mệt mỏi. Anh chui vào lều lôi cái đàn ghi-ta vừa
tậu được, rung lên những giai điệu nhạt nhẽo, buồn chán. Người ta đang nghi ngờ
anh là "Việt gian bán nước" hay đại khái như vậy. Nhiều đêm bất ngờ
tỉnh dậy, thấy một vài bóng đen núp dưới chân, anh hắng giọng, quát: "Đứa
nào đó, hả?". Những cái bóng đen này lẳng lặng biến mất. Một đôi lần đã
nghe Chủ tịch thị trấn nói bóng nói gió rằng sẽ có lúc, lúc nào thì không biết,
Họa sĩ sẽ đứng trước tòa án của nhân dân. Anh nhếch mép cười và nhớ lại, kể từ
ngày cùng hai mươi chín trai tráng trong làng xắn quần móng lợn, băng qua trảng
cát cứ thẳng hướng Chóp Chài mà tiến, đến nay đã hai mươi năm. Ngần ấy năm
"bám váy cách mạng" (Họa sĩ hay nói vậy vì luôn nghĩ mình là kẻ ăn
hại) chưa một lần nào anh nghi ngờ cách mạng và xã hội mà mình đang sống. Họa
sĩ chỉ thấy ngứa ngáy, khó chịu về những kẻ bần tiện và dốt nát đang giữ những
vị trí quan trọng trong xã hội mình tin yêu. Những kẻ ấy mặc nhiên đang được số
đông coi trọng, đang có uy tín cực kỳ. Họ bắt anh nếu đã yêu (Chủ nghĩa Xã hội)
thì phải yêu đúng như họ đang yêu. Họ yêu làm sao thì anh phải yêu làm vậy. Họ
không biết, hoặc cố tình không biết, tình yêu hẳn nhiên là có nhiều cung bậc,
hãy để cho trái tim rung theo đúng cung bậc của chính mình thì tốt biết bao
nhiêu. Đa số trong họ không ai biết mấy nghệ thuật mà Họa sĩ ném cả đời mình
vào đấy. Thế nhưng kỳ quặc thay, họ luôn tỏ ra là họ quá hiểu và ép anh phải
làm theo đúng điều mà họ hiểu kia. Họ gợi ý
cho anh các loại đề tài, đôi khi còn tham gia và bố cục một bức tranh. -
"Anh bộ đội sao lại đứng xa thế kia?" - "Chị nông dân phải giơ
cao cái liềm chứ" - "Cái búa đâu, bỏ mẹ, công nhân mà không cầm búa
à?". Họ còn dòm ngó vào cách pha màu của Họa sĩ, xem có dụng ý gì không,
và run lên nếu bức tranh chỉ toàn màu lạnh. Run lên... nghĩa là tức run lên,
thế đấy. Họ cho rằng, hơn ai hết, họ là bác sĩ tinh thần của nhân dân. Họ sợ
nhân dân vị nhiễm các nọc độc tư sản. Vì quá u mê về nghệ thuật, họ loại hết
những
gì Họa sĩ vẽ mà họ không hiểu, loại hết, sạch sành sanh. Bây giờ Họa sĩ phải
làm theo đúng yêu cầu của họ. Cần có nhiều lợn gà, hãy vẽ một đàn lợn gà to
béo; cần đồng lúa tăng sản, hãy vẽ một cô gái xinh tươi gánh hai bó lúa to đứng
trước một cánh đồng lúa vàng trĩu hạt; cần sinh đẻ có kế hoạch, hãy vẽ một cái
vòng thật to, ở giữa là một gia đình hai con hạnh phúc...
-
Ối giời đất ơi, thế thì tôi chịu! Bố tôi sống lại cũng xin hàng!
Họa
sĩ kêu lên và từ chối quyết liệt. Anh công khai tuyên bố rằng đó là loại nghệ
thuật
thô thiển, thứ minh họa đần độn mà mình luôn luôn khinh rẻ. Thế là chạm phải
vấn đề "lập trường tư tưởng". Thế là cãi nhau, cãi nhau to. Ức quá, Họa
sĩ đập bàn, đập ghế, chửi um lên, lại còn "đù mẹ đù cha" nữa. Trong
khi đó họ vẫn bình thản như không, cứ "đường lối chủ trương" mà phát
biểu. Họa sĩ phải sai, sai bét! Chứ không à? Nếu đã yêu chủ nghĩa xã hội sao
lại chống đối chủ trương đường lối? Lại còn "đù mẹ đù cha"? "Đù
mẹ đù cha" ai? Vì sao lại "đù mẹ đù cha"? Và "đù mẹ đù
cha" nghĩa là thế nào?...
Họa
sĩ nốc một cốc rượu đầy, ngồi tựa vào vách nứa, mắt lim dim. Lúc này đã sẩm
tối, những người đánh cá đêm đã ra sông, lần lượt đỏ đèn sáng rực một dãy dài
bờ bên kia. Anh ngoái cổ nhìn trừng trừng ngọn đèn măng-sông lần lượt được thắp
đèn. Tiếng lóc cóc, lóc cóc của những người lùa cá.
-
Mẹ kiếp mấy con cá, ngu! Đèn măng-sông lại tưởng là mặt trời. Tí ta, tí tởn...
vào rọ tất!
Anh
bật cười. Mới đầu cười khục khục, sau, không rõ lý do gì bỗng cười ha ha ha,
vuốt mũi một cái lại cười ha ha ha... Cũng vừa lúc Hoàng đẩy cửa bước vào.
Hoàng rùng mình thấy một "bãi chiến trường" dưới chân Họa sĩ: ngổn
ngang giấy má, tre nứa và vỏ chai - vô số là vỏ chai. Hoàng đứng tần ngần một
lát, khẽ chào Họa sĩ, rồi rón rén bước qua đống hổ lốn đồ đạc, vật liệu lăn lóc
bừa bãi giữa nền nhà đến ngồi lên cái thùng sắt rỉ úp ngược. Chẳng thấy gì
ngoài đống tranh xếp lộn xộn đầy góc lều và mấy cái nồi vứt lỏng chỏng quanh
đấy. Hình như ngày hôm nay Họa sĩ không nấu ăn, không có gì để nấu ăn. Cái
thùng sắt rỉ dùng để đựng gạo bây giờ đã lật ngược. Hai chai đựng nước mắm nằm
lật nghiêng, trống không, kiến bò đầy đít chai. Không có gì có thể nhá được trừ
hai con mực nướng bị gặm nham nhở trong cái đĩa sắt tây cạnh chân Họa sĩ. Hẳn
nhiên rượu vẫn có, nhiều là đằng khác: một chai đang uống dở, dưới gầm bàn còn
nguyên xi hai chai. Tính Họa sĩ vốn vậy, hết tiền mua gạo - đó là một
"chân lý"; luôn sẵn tiền mua rượu - lại là một "chân lý"
khác. Không ai tin được, nhưng quả đúng như vậy. Thế mới buồn cười, Họa sĩ bao
giờ cũng buồn cười.
-
Hoàng đấy à? Hoàng phải không nhỉ?
Họa
sĩ bỗng ngước lên, giương mắt nhìn Hoàng y như vừa bắt gặp một thiên thạch.
-
Vâng, cháu... - Hoàng rụt rè trả lời.
-
A ha ha... Hoàng! Té ra là Hoàng thật!
Họa
sĩ bò tới ôm lấy hai đầu gối Hoàng cười ha hả.
-
Đang buồn, ối giời đất ơi, buồn thê lương chú mày ạ. Nào, đem kiểm tra xem đang
là "chim" hay đã thành "cu" rồi nào! ... A ha ha
"cu"! "Cu"! Chú mày lớn từ lúc nào thế?
Hoàng
thấy nhột, hất nhẹ tay Họa sĩ ra, nói:
-
Hôm nay ngày sinh nhật của ba cháu đấy, chú Tư. Ba cháu mời chú đến chơi. Hình
như lúc chiều ba cháu có nhắn với chú rồi...
-
À... ờ nhỉ? Ôi thôi bỏ mẹ tôi rồi! Mười bảy tháng Bảy...
Họa
sĩ lồm cồm bò dậy, vớ lấy áo trắng cáu bẩn móc ở phía trên thùng gạo:
-
Đi chớ! Bí thư huyện ủy mời mà dám không đi à? Có muốn chết...
Nói
vậy nhưng Họa sĩ lại ngồi bệt xuống, cầm chai rượu thong thả rót đầy hai chén.
-
Uống một chén đã Hoàng. Tập làm đàn ông đi. Làm đàn ông sướng lắm chú mày ơi,
sư-ướng lắm!
Hoàng
đỡ chén rượu từ tay Họa sĩ. Anh không uống, chăm chăm nhìn gương mặt hốc hác
của Họa sĩ. Họa sĩ tu sạch chén rượu đầy, "khà" một tiếng thật to,
đưa tay áo quệt mồm, lè nhè:
-
Chà, sinh nhật sinh nhiếc... hì hì... chúng nó lừa ba cậu đấy chứ ba cậu dân
nhà quê biết quái gì cái trò này. Hả? Biết gì... Chúng nó muốn hà hít ba cậu để
nương thân đấy... Ba cậu có biết chúng nó muốn bịa ra cái sinh nhật để hà hít
không? Biết qua đi chớ. Dân nhà quê thế chứ khôn tổ bố. Tôi còn lạ gì ba cậu...
Không ai lừa được ba cậu đâu nhé. Ông ấy chỉ giả vờ bị mắc lừa thì cực giỏi.
Thật đấy, ba cậu ấy mà...
Họa
sĩ khua khua chén rượu trước mặt mình, nói liên miên. Hoàng không giận - giận
Họa sĩ thì giận cả đời - chỉ thấy buồn. Một lần, nhân chuyện gì đó Hoàng có hỏi
ba anh:
-
Chú Tư nói vậy có đúng không?
Ba
anh tủm tỉm cười:
-
Chú ấy luôn luôn nói đúng một nửa sự thật.
Hoàng
lại hỏi:
-
Tại sao chú Tư chỉ nói đúng một nửa sự thật?
Ba
anh trả lời:
-
Nửa sự thật còn lại có thể chú ấy không biết, không thấy hoặc có biết, có thấy
nhưng không tin.
Hoàng
gặng hỏi:
-
Tại sao chú ấy có biết có thấy lại không tin?
Ba
anh thở dài:
-
Thì chính ba cũng đang hỏi ba câu ấy.
Nếu
ba anh nói đúng, tức Họa sĩ luôn luôn nói đúng một nửa sự thật, vậy nửa sự thật
còn lại sẽ nằm ở phía nào trong cái sự lè nhè của Họa sĩ về chuyện "sinh
nhật, sinh nhiếc" kia?
Họa
sĩ chống gối đứng dậy, lảo đảo tiến về phía cây đàn ghi-ta treo lủng lẳng trên
đống
xoong nồi. Họa sĩ ôm đàn ghi-ta ngồi bệt xuống chiếu, khịt khịt mũi.
-
Dù sao cũng phải chúc mừng ngày sinh nhật của một ông đầu têu huyện, đúng
không?
Họa
sĩ giương mắt nhìn Hoàng, nhấp miệng một cái rồi cao giọng:
-
Nào, cậu đem chai rượu lại đây, rót đi. Tôi và cậu chúc mừng ba cậu.
Hoàng
rót đầy hai chén, ngồi bệt xuống chiếu, đối diện với Họa sĩ. Họa sĩ nâng cốc,
mắt long lanh.
-
Nào, chúc mừng Chủ nghĩa Xã hội huyện nhà, dưới sự lãnh đạo của Bí thư Thanh và
Đại úy Thìn ngày mỗi tươi sáng.
Cốc!
Tách!
-
Chúc đồng chí Thanh kính mến của chúng ta sống dai hơn và khôn vặt nhiều hơn!
Cốc!
Tách!
Họa
sĩ hất hàm:
-
Cậu phải nói đi chớ.
Hoàng
cười, lắc đầu. Anh liền nhấp một ngụm. Đấy là những giọt rượu đầu tiên trong
đời anh. Những giọt rượu nóng rực chạy ngoằn nghèo trong bụng, chạy đến đâu
biết đến đó. Anh nghĩ thầm: "Gớm, rượu nóng như lửa là vậy mà chú Tư ngày
nào cũng vài chai thì còn gì là ruột gan? Ghê thật".
-
Cậu phải nói đi chứ. - Họa sĩ nhắc lại.
Hoàng
lắc đầu:
-
Cháu chả biết chúc.
-
Thì cứ nói đại một câu gì đấy!
Ngần
ngừ một lát, Hoàng nâng cốc lên, vui vẻ:
-
Chúc ba cháu ngày mỗi mạnh khỏe. Chúc ba cháu và chú Tư đều có vợ!
-
Há hô hô hô... Thằng này làm lãnh đạo được, nói năng khôn tổ bố.
Họa
sĩ Tư cười, ôi chao là cười. Vừa cười vừa "hay" "được"
"khá".
Cốc!
Tách!... Cốc! Tách!... Cốc! Tách!
Họa
sĩ hào hứng tung cây đàn ghi-ta lên, hát. Họa sĩ hát rất hay, giọng ấm và
trong, vang xa như giọng bất kỳ ca sĩ có hạng nào trong tỉnh, không gợn một
chút lè nhè nào.
“Rồi mọi sự sẽ qua đi, may mắn và cay đắng. Rồi mọi sự sẽ qua đi, kẻ ác
và đứa thiện. Anh và em là cái cóc khô gì mà nuối tiếc...
Rồi
mọi sự sẽ qua đi, cỏ sẽ lên xanh. Anh và em là cái cóc khô gì mà vương
vấn nhau hoài...”
Hoàng
há hốc mồm nghe Họa sĩ, sướng lịm sườn. - "không biết bài hát của ai mà
hay thế?"...
Toàn
thân Họa sĩ rung lên theo nhịp điệu u sầu của bài hát. Họa sĩ mở to mắt, đăm
đắm nhìn vào góc tối, nơi có bức tranh đang đặt úp lên cái ghế đẩu, y như Họa
sĩ hát vì bức tranh, cho bức tranh.
"Không
biết bài hát của ai mà hay thế?"... - Hoàng nhắm nghiền mắt, bất giác nhớ
đến tấm thân nõn nà của Thùy Linh buông xuống dòng sông, như một mảnh trăng non
dập dềnh...
Họa
sĩ đang ngật ngưỡng với cây đàn ghi-ta của mình, không nhớ đến Hoàng nữa, toàn
thân rung lên theo nhịp điệu u sầu của bài hát, mắt vẫn không rời góc tối, nơi
có bức tranh đang đặt úp lên cái ghế đẩu. Hoàng đứng dậy, tiến về phía bức
tranh, nhấc lên. Tiếng hát im bặt. Họa sĩ bần thần nhìn theo Hoàng. Hoàng giơ
cao bức tranh sơn dầu có cái tên: "Trăng thượng huyền" về phía Họa
sĩ:
-
Chú mới vẽ đấy à?
-
Ờ, mới. Được không?
Hoàng
cười:
-
Cháu biết gì mà được với không?
Hoàng
vẫn ngắm nghía bức tranh, cố tìm xem "ý nghĩa" bức tranh là như thế
nào. Bức tranh đặc tả một người đàn ông đứng đối diện với một người đàn bà trên
vầng trăng non được vẽ như cái thuyền treo lơ lửng giữa nền trời màu tro xám.
Hai người đều trần truồng, trắng lốp. Người đàn ông thấp bé, gầy còm, vẻ mặt
kiêu hãnh hơi ngẩng lên, hai tay hướng về người đàn bà. Người đàn bà thân hình
cân đối thon thả, mông và ngực nở căng, gương mặt đau đớn như đang chạy từ một
nơi giông gió đến. Hai tay cũng hướng về người đàn ông. Họ đang hướng về nhau,
cố tiến về nhau, nhưng có một sức mạnh siêu nhiên nào đó ngăn cản họ, buộc họ
phải dừng lại ở một khoảng cách rất nhỏ, nhỏ đến mức chỉ cần cố lên một chút
nữa là họ có thể ôm chầm lấy nhau... Thế mà không được, không cách gì có thể
được. Đôi cánh tay trần người đàn bà đang run lên, chới với...
-
Chú vẽ ai thế này?
Hoàng
ngước nhìn Họa sĩ. Họa sĩ buồn rầu đáp:
-
Không ai cả. Nghệ thuật là hư cấu, tôi chỉ hư cấu...
-
Không đúng!
-
Sao?
Họa
sĩ ngơ ngác, mắt chớp chớp. Hoàng quả quyết:
-
Chú vẽ chú và thím Hoa!
Họa
sĩ bật dậy, lừ lừ đến chỗ Hoàng, toàn thân nghiêng ngả, tựa một cơ thể đã rệu
rã, chỉ một chút xíu nữa là đổ sập xuống, văng ra từng mảnh một.
-
Ai bảo cậu? Ai bảo cậu... rằng thì là... tôi là... vẽ tôi và...
Trông
Họa sĩ dữ tợn hẳn: mắt trợn ngược, hai hàm răng nghiến chặt. Hoàng tủm
tỉm
cười, đặt bức tranh về chỗ cũ.
-
Chú giả vờ làm gì, cháu biết hết! Đấy là bức tranh nói về hoàn cảnh của chú và
thím Hoa.
Thế
là Họa sĩ bỗng như một kẻ cuồng, nhảy nhót, khoa chân múa tay.
-
Thế à? Cậu biết thật à? Hé he he... Thế mà tôi cứ nghĩ chỉ có tôi, đích thị là
tôi, không ai khác hơn là tôi mới hiểu nó! Ghê gớm chưa: nghệ thuật!... Tôi vẽ
tôi đấy! Tôi vẽ tôi và vợ anh tôi đấy! Cắt cổ tôi đi! Ai cắt cổ tôi thì cứ
việc, xin mời!
Họa
sĩ lại nâng cây đàn ghi-ta lên, đứng chạng chân tựa vào vách lều, hát. Hát như
một kẻ điên khùng:
“Rồi mọi sự sẽ qua đi, may mắn và cay đắng. Rồi mọi sự sẽ qua đi, kẻ ác
và đứa thiện. Anh và em là cái cóc khô gì mà nuối tiếc.
Rồi
mọi sự sẽ qua đi, cỏ sẽ lên xanh. Anh và em là cái cóc khô gì mà vương vấn nhau
hoài...”
Hoàng
bỗng rưng rưng nước mắt.
Lát
sau, Họa sĩ nhờ Hoàng bí mật trao bức tranh "Trăng thượng huyền" cho
thím Hoa. Hoàng vui vẻ nhận lời.
-
Cậu về trước đi. - Họa sĩ bíu vai Hoàng vừa thở vừa nói: - Nhà cậu bây giờ toàn
loại tai to mặt lớn đến mừng sinh nhật ba cậu... Tớ đến sớm dễ phá đám lắm. Về
đi, tớ sẽ đến sau...
Hoàng
chui ra khỏi lều, ngoái lại chợt thấy Họa sĩ rủ xuống, nằm còng queo trên tấm
chiếu rách. Hoàng vừa đi vừa ngoái lại mãi cho đến lúc chỉ còn thấy ngọn đèn
dầu trong túp lều cháy yếu ớt, hiu hắt như mắt Họa sĩ thỉnh thoảng ngước lên,
ngóng đợi một điều gì...
*
* *
Thùy
Linh chạy băng qua cánh đồng nhỏ đến nhà Hoàng. Cô cần phải gặp Hoàng ngay.
Cũng chẳng để làm gì cả, cô rất muốn gặp anh, thế thôi. Trong cô đang có một
chấn động khủng khiếp mà trái tim non dại của cô chưa đủ sức chịu đựng. Cô tìm
gặp Hoàng không phải để giãi bày "chấn động" này. Cô sẽ không cho ai
biết, bất cứ ai, kể cả mẹ cô. Bởi vì cô thấy xấu hổ, không, bởi vì cô thấy nhục
nhã, và ghê tởm...
Chuyện
vừa xảy ra xong nhưng nó có mầm mống từ hai ngày trước.
Đó
là buổi chiều thứ Năm. Trần Hới đột nhiên đến chơi nhà Thùy Linh. Cô đang làm
cá, cảm thấy một đôi mắt đang nhìn sau gáy mình. Thùy Linh quay lại: Trần Hới
đang đứng khoanh tay nhìn cô, cách chừng hai bước chân.
-
Thưa thầy... thầy đến chơi.
Trần
Hới mỉm cười, khẽ lắc đầu:
-
Tôi bây giờ đâu còn là thầy của Thùy Linh nữa.
-
Dạ, nhưng mà...
Thùy
Linh cười, dẹp cá sang một góc, rửa tay.
-
Cứ làm cá tiếp đi. Tôi đứng đây nói chuyện cũng vừa.
-
Mời thầy vào nhà chơi.
Thùy
Linh tránh cái nhìn của Trần Hới, cúi đầu đi vào nhà. Trần Hới chậm rãi bước
theo
sau. Thùy Linh thấy lạ, không dưng thầy lại đến chơi? Đã hai năm nay, từ ngày
thầy bị kỷ luật vì tội ăn nằm với một học sinh lớn tuổi, buộc thôi dạy toán về
coi Phòng Giáo cụ Trực quan, thầy không đến chơi nhà học trò nữa. Đã hai năm,
thầy ra ra vào vào quanh khu vực nhà trường. Thường là chỉ luẩn quẩn quanh Phòng
Giáo cụ Trực quan. Năm nay thầy bỗng trúng Ban chấp hành đoàn trường, được bầu
làm Bí thư đoàn trường, phạm vi đi lại của thầy có rộng hơn nhưng cũng chẳng
vào nhà học trò. Thầy chỉ đi lại từ trường lên huyện đoàn, đôi khi rẽ qua Ủy
ban Hành chính thị trấn, thế thôi.
Chuyện
thầy bỗng nhiên trúng Ban chấp hành đoàn trường rỗi bỗng nhiên trúng Bí thư
đoàn trường với số phiếu gần tuyệt đối làm nhiều người ngạc nhiên. Có nhiều
cách giải thích khác nhau. Cách giải thích phổ biến nhất: Trần Hới là một thanh
niên đa tài. Thầy hát hay, chơi ghi-ta thần tài và hoạt bát, năng nổ. Nếu không
có vụ hủ hóa nghiêm trọng kia thì thầy đã được bầu làm Bí thư đoàn trường khóa
trước. Cách giải thích thứ Hai, chỉ phổ biến nội bộ - bằng phương pháp rỉ tai -
là thầy, chính thầy đã ủng hộ thầy hiệu phó rất quyết liệt khi thầy hiệu trưởng
và thầy hiệu phó xích mích nhau. Rồi không rõ vì sao bỗng dưng thầy hiệu trưởng
bị cách chức vì tội tham ô. Tham ô gì thì Thùy Linh không biết (học trò không
được biết chuyện thầy giáo), chỉ nghe nói là thầy hiệu trưởng lấy của nhà
trường bốn tấn xi măng về xây nhà riêng. Người nói: làm gì có, thầy hiệu trưởng
không bao giờ làm chuyện đó. Người nói: không có mà bị cách chức à? Người nói:
Trần Hới là thằng vu cáo. Người nói: Trần Hới là người trung thực, dám đấu
tranh... Linh tinh cả lên, chẳng ra đầu cua tai nheo gì cả. Khi Thùy Linh và
Hoàng bước vào năm học mới, cũng là năm cuối cùng của tuổi học trò, cô và Hoàng
đều được kết nạp Đoàn và lần đầu tiên được dự Đại hội Đoàn trường, thì vụ tham
ô của thầy hiệu trưởng đã được kết luận. Thầy hiệu trưởng bị điều đi dạy một
trường khác. Thầy hiệu phó lên làm hiệu trưởng. Trần Hới được chi bộ nhà trường
đề cử vào Ban chấp hành đoàn trường. Chi bộ đã giới thiệu thì bỏ vào cối đâm
cũng không trật. Người ta nói thế. Và có thế thật, Trần Hới đắc cử. Ba tháng
sau, do yêu cầu nhiệm vụ, người ta không thể để một Bí thư đoàn trường ở ngoài
Đảng, vô lý. Vậy là Trần Hới được kết nạp và Đảng. Thật không ngờ.
Công
việc đầu tiên của thầy là tổ chức ngay một đội văn nghệ. Thùy Linh cùng với hai
bạn gái trong lớp được điều động vào đội văn nghệ. Cũng là lẽ đương nhiên, Thùy
Linh hát hay và đẹp. Hát hay đã quý rồi, đằng này lại đẹp nữa, đội văn nghệ lập
tức nổi tiếng. Thi huyện nhất huyện. Thi tỉnh nhất tỉnh. Đặc biệt nhất là điệu
múa "Đầm sen"...
Trong
đầm gì đẹp bằng sen
Lá
xanh bông trắng lại chen nhụy vàng...
Thùy
Linh từ từ đứng dậy giữa những "cánh sen" trắng. Cô mặc bộ đồ lụa
vàng mỏng, uốn mình thực hiện những đường lượn tuyệt vời...
Nhụy
vàng bông trắng lá xanh...
-
Hoan hô!
-
Múa lại!
-
Ho-an-hô-ô!
Bao
giờ cũng thế, ở đâu cũng thế, điệu múa "Đầm sen" đều được khán giả vỗ
tay vang dội.
Cái
đêm kết thúc cuộc thi văn nghệ quần chúng của 120 đội văn nghệ tại thị xã Đ. ban
giám khảo quyết định trao giải nhất cho đội văn nghệ trường cấp ba huyện Linh
Giang. Trần Hới đứng trước bốn ngọn đèn pha, khiêm tốn cúi chào một ngàn khán
giả. Tất cả đều xuýt xoa trước vẻ đẹp mê li của thầy.
-
Hoan hô!
Không
biết người ta hoan hô Bí thư đoàn trường nổi danh vì xây dựng được đội văn nghệ
nổi danh hay hoan hô vì "thằng cha này quá đẹp!". Thùy Linh đứng
trong cánh gà nhìn xuống hội trường thấy một ngàn cặp mắt long lanh, long
lanh... Trần Hới đi vào, thầy dừng lại trước mặt Thùy Linh.
-
Tôi thấy xúc động quá, Thùy Linh ạ.
-
Vâng... em cũng mừng...
Trần
Hới nắm hai bả vai Thùy Linh siết mạnh.
Trần
Hới cúi xuống, cúi xuống nữa... Bất ngờ Thùy Linh ngước lên, bắt gặp hai tia
mắt sáng xanh của thầy đang dần áp sát mặt mình. Cô giật mình lùi mau ra.
-
Cám ơn Thùy Linh!
Thùy
Linh vùng chạy. Cô chạy thục mạng ra phía sau hội trường. Cô run lên, đứng dựa
vào tường chắn gió thở dốc. Suýt nữa, suýt nữa... cô bị một cái hôn của thầy
rơi xuống...
Đấy
là chuyện cũ. Từ ngày Thùy Linh thôi không tham gia đội văn nghệ nữa, cô cũng
ít gặp thầy. Thỉnh thoảng có gặp, Thùy Linh đều thấy vẻ ăn năn hối lỗi qua cái
nhìn dịu dàng lẫn đau khổ của thầy.
-
Tôi đến để báo cho em một chuyện buồn. Trần Hới bẻ ngón tay, thong thả nói.
-
Sao ạ? - Thùy Linh ngừng rót nước, hỏi.
Trần
Hới đưa tay vuốt nhẹ mái tóc ốp rất đẹp của mình, khẽ thở dài. Hai tay chống
trán, ngồi im lặng rất lâu. Lát sau ngẩng lên, buồn rầu nói:
-
Tôi sắp có vợ rồi!
Thùy
Linh bật cười:
-
Thầy nói đến hay! Sắp có vợ lại buồn.
Trần
Hới nhếch mép, vẻ chán chường. Nhấp một ngụm nước chè nóng, mắt lơ đãng nhìn ra
cửa sổ.
-
Cuối cùng là số phận, - Thầy nói: - Số phận Thùy Linh ạ. Em có biết cô Cam
không?
-
Cô Cam dạy cấp một ấy à?
-
Đấy. Ngày mai, đúng mười tám giờ tôi sẽ tổ chức... cưới cô ấy.
Thùy
Linh tròn mắt. Không ngờ thầy lại cưới cô Cam. Thầy đẹp giai thế, nổi tiếng
thế... Tất nhiên, cô Cam bản tính hiền lành, nhu mì, về hạnh kiểm chẳng có gì
phải bàn cả. Có điều, quả là cô xấu quá, mặt tròn phẹt, rỗ hoa, người lùn, tròn
quay như cái cối xay. Bọn con trai xấu miệng vẫn gọi cô là "Cam thị
nở"... Đã xấu lại cao tuổi. Không chừng còn lớn tuổi hơn thầy. Thùy Linh
bỗng chạnh lòng thương thầy. Ừ, có lẽ là số phận cũng nên. Chao ôi, cái số phận
thật kinh khủng.
-
Tôi đến nhờ Thùy Linh - Trần Hới chậm rãi nói, giọng đầy vẻ chán chường: - ngày
mai, đúng mười tám giờ đến giúp tôi hát mấy bài, gọi là liên hoan văn nghệ.
-
Vâng... - Thùy Linh khẽ nói rồi bỗng nhiên nói to: - Nhưng thầy yêu cô Cam bao
giờ thế? Lâu nay em có thấy thầy đi lại nhà cô bao giờ đâu?
Trần
Hới cười dài, lấy khăn mùi xoa chùi nước mắt sống.
-
Yêu à? Không yêu mà cưới sao? - Thầy lắc đầu: - Thôi, nói chuyện ấy thêm
buồn... Thực ra tôi đâu có yêu... Tôi đùa giỡn chút ít hóa ra thật...
Trần
Hới chào Thùy Linh, lẳng lặng ra về. Thùy Linh đưa thầy ra ngõ. Hai người sóng
đôi, nhưng bước đi chậm và buồn. Đến hàng rào cây dâm bụt, Trần Hới ngắt một
bông hoa, để vào lòng tay xoay xoay.
-
Đến bây giờ thì tôi bỗng khinh tôi, ghê tởm tôi... Và, tôi có thể... nói điều
này với Thùy Linh... - Thầy ngừng nói, thở dài: - Nói bây giờ Thùy Linh có thể
tin, còn trước đây thì không thể... Bởi vì, tôi đã có "dớp" rồi! Tôi
yêu em, Thùy Linh ạ, tôi yêu em! Thế đấy!...
Thầy
bước nhanh ra ngõ, đi như chạy, đầu cúi gầm xuống mặt đường.
Thùy
Linh không ngạc nhiên. Cô đã biết điều ấy từ lâu, từ rất lâu rồi. Cô cũng chẳng
muốn thầy nói ra bởi vì cô đã có Hoàng. Cô yêu Hoàng và sợ thầy. Nhưng lúc này,
không hiểu sao cô lại thấy thương con người mà mình luôn luôn lẩn tránh ấy. Ừ,
số phận cả thôi mà...
Tối
hôm sau Thùy Linh đến đám cưới đúng giờ. Lúc đầu cô định rủ Hoàng cùng đi. Sau,
nghĩ lại, biết Hoàng không thích chỗ đông người, nên thôi.
Đám
cưới lớn, rất lớn, lớn và rầm rộ, vượt ra ngoài tưởng tượng của Thùy Linh. Đủ
mặt tất cả quan chức trong huyện, kể cả ba Hoàng. Con gái phó Bí thư huyện ủy
kiêm Chủ tịch huyện cưới chồng, đáng ra
không thể cưới được chồng lại cưới được ông chồng quá đẹp trai. Vậy là người ta
xô nhau đến, ầm ào náo nhiệt, tầng tầng lớp lớp chật cứng cả hội trường lớn của
huyện. Cô dâu mặc áo dài màu tím, có thắt nơ hồng đính ở ngực, cài vòng hoa
nhài trắng ở đầu. Chú rể bận com-lê xanh, thắt nơ xanh đính ở ngực. Mặt hai
người rạng rỡ, tràn ngập hạnh phúc, khoác tay nhau bước vào hội trường. Pháo nổ
kéo dài mười chín phút. Giới thiệu, vỗ tay. Cô dâu chú rể đứng ra chào hai họ,
vỗ tay. Đại diện gia đình, Chủ tịch huyện đứng ra đọc một bài diễn văn, vỗ tay.
Sau đó là chương trình văn nghệ kéo dài hai tiếng đồng hồ. Thùy Linh hát hai bài.
Bài nào cũng được vỗ tay nhiệt liệt. Cuối cùng đám cưới cũng phải tàn. Đã mười
hai giờ đêm. Đội văn nghệ ở lại ăn mặn với gia đình thêm hai giờ nữa là hai giờ
sáng.
-
Tôi sẽ đưa Thùy Linh về.
Trần
Hới thay bộ com-lê, bận đồ xanh công nhân, vui vẻ nói với Thùy Linh.
-
Thưa thầy, em về một mình được.
-
Thôi đi! Nhà em ở xa nhất, con gái không nên đi một mình.
Đoạn,
thầy quay lại cô Cam lúc này vẫn đang bận áo dài màu tím, hình như cô không
muốn thay cái áo quá đẹp này...
-
Anh đưa Thùy Linh về nhà. Học trò anh... nó ở xa.
-
Dạ! - Cô Cam mỉm cười gật đầu. Cô đang hạnh phúc, ai muốn làm gì mà chẳng được.
Trần
Hới cùng Thùy Linh bước ra đường. Đêm rũ xuống đen đặc. Gà gáy. Những con gà
trống chán đêm rướn cổ, đập cánh gáy vang động. Với gà trống, đêm tối là ngục
tù của nó. Còn con người thì ngược lại, họ có hai phần: phần ánh sáng và phần
bóng tối. Bóng tối cũng có nhiều việc phải làm. Nói chung, người ta dùng ánh
sáng để làm phận sự của phần Người, bóng tối để làm nốt phận sự còn lại, cũng
rất quan trọng- phần Con! Việc phân chia này cũng chỉ là qui ước tương đối,
trong thực tế cứ lộn tùng phèo cả lên.
-
Nói chung, tôi là một thằng hèn. - Trần Hới nói.
-
Sao ạ? - Thùy Linh hỏi.
-
Bởi vì... Lý ra tôi không nên nhảy vào đám cưới ngớ ngẩn này.
-
Thầy đừng nói thế. Số phận, phải chấp nhận...
Họ
đi sát bên nhau, trong cái phần bóng tối của con người. Thỉnh thoảng đưa đẩy
vài câu rồi im lặng. Thùy Linh thấy lạnh, cô khoanh tay trước ngực, bước theo
thầy. Trần Hới cũng khoanh tay chậm rãi bước.
Những
con gà trống chán đêm rướn cổ, đập cánh gáy vang động.
Bất
ngờ, Trần Hới đưa tay khoác qua vai Thùy Linh, kéo sát. Giật mình, Thùy Linh
bắn người ra xa.
-
Thầy!...
Trần
Hới nhào tới, choàng lấy cô siết mạnh.
-
Thầy-ầy!... Thầ-ầy!...
-
Tôi yêu em, Thùy Linh. Tôi sẽ rũ bỏ tất cả, rũ bỏ tất cả để có em!
Trần
Hới ghì chặt môi mình lên mặt Thùy Linh, hôn điên dại. Thùy Linh kêu to:
-
Buông ra! Buông ra!
Và
toàn bộ sức mạnh trinh nữ đã đánh bật Trần Hới ra xa, Thùy Linh vùng chạy.
-
Hoàng ơi! Cứu!...
Cô
hét lên, hét rất to. Thị trấn Linh Giang đã ngủ say. Người nào không ngủ thì
đang cạy cục thực hiện cái phần Con, không còn ai nghe thấy. Thùy Linh chạy một
mạch về nhà. Cô lao vào, đập cửa dữ
dội:
-
Mẹ! Mẹ! Mẹ!
Và
cô ngã vào lòng thím Hoa, òa khóc.
*
* *
Hoàng
bước vào nhà, các vị tai to mặt lớn (theo cách nói của Họa sĩ Tư) trong huyện
đã có mặt đầy đủ, trừ Đại úy Thìn do phải trực chỉ huy không đến được. Bốn dãy
bàn, sáu mươi người đang ôm bụng cười ha hả vì một câu nói đùa của ba Hoàng vừa
dứt. Rượu và rượu và rượu... giăng đầy và những cặp mắt lờ đờ vì hơi men. Chỉ Bí
thư huyện ủy Trần Văn Thanh là vẫn tỉnh như sáo. Ông mặc bộ com-lê đen, đi lại
nhẹ nhàng giữa các dãy bàn, chạm cốc với một người, vỗ vai với một người, rỉ
tai với một người... cứ thế, cứ
thế... cười. Cười nghiêng ngả.
Lần
đầu tiên ông Thanh tổ chức sinh nhật. Lần đầu tiên thị trấn Linh Giang có người
tổ chức sinh nhật. Xưa nay chẳng ai nghĩ đến cái "trò nhảm nhí" này
bao giờ. Nhiều người biết, nhiều người muốn tổ chức, nhưng chưa ai dám, sợ bị
qui là phú quý sinh lễ nghĩa. Nhất là trong những năm đầu của "thời kỳ quá
độ", nhân dân lao động đang đổ mồ hôi sôi nước mắt xây dựng Chủ nghĩa Xã
hội, cái "trò nhảm nhí" này lại được coi là rất nhảm nhí, sặc mùi tư
sản thực dân. Ông Thanh không nghĩ vậy, có điều ông cũng chẳng thú gì lắm trò
này. Ông cho rằng, cuộc đời đã quá bận rộn với các sinh nhật lớn, các ngày kỷ
niệm lớn... Bây giờ không dưng lại bắt mọi người phải nhớ đến cái ngày
"lòi mắt chuột" của bí thư Huyện ủy quèn, là ông. Lại thêm xung quanh
ông chẳng ai kỷ niệm ngày sinh tháng đẻ của mình, người ta chỉ cố hoàn thành
việc phụng thờ người chết đã mệt mỏi lắm rồi, bây giờ lại phụng thờ chính mình,
chính những người đang sống nhăn răng quanh mình... Hà, nghe buồn cười chết đi
được! Vậy nên ông chẳng thiết đến cái trò này, thậm chí nhớ đến ngày mình sinh
ra ông cũng cảm thấy vô duyên. Công việc này chỉ dành cho khi ngồi ghi lý lịch,
làm hộ khẩu... Thế thôi. Còn lại, phải quên ngay, nếu không, có người sẽ qui
cho ông là cá nhân chủ nghĩa.
Hôm
hai vợ chồng Trần Hới đến chơi nhà, mời ông dự lễ cưới. Nói chuyện tào lao một
lát, Trần Hới hỏi:
-
Năm nay chú có tổ chức sinh nhật không?
-
Sinh nhật nào? - Ông ngớ ra.
Trần
Hới bình thản nói:
-
Chú sinh ngày mười bảy tháng Bảy năm 1909, tức là ngày mồng một tháng Sáu năm
Kỷ Dậu. Năm nay là năm Giáp Thìn, tức chú chẵn 55 tuổi.
-
Ờ nhỉ! - Ông Thanh ngửa người ra thành ghế vui vẻ: - Gớm, anh mới quen con gái
ông bạn tôi có vài tháng mà đã nhớ ngày sinh tháng đẻ của tôi.
Cô
giáo Cam nói, giọng tươi rói:
-
Thế là chỉ còn hai ngày nữa, sau đám cưới bọn cháu là đến lượt chú... Bọn cháu
được ăn kẹo...
Ông
Thanh xua tay, cười:
-
Nói vậy là... nói vậy chứ tổ chức làm cái gì, nhiêu khê lắm.
-
Ấy! Bọn cháu lo hết! - Trần Hới kêu to: - Bọn cháu biết hoàn cảnh của chú. Nhà
chỉ có em Hoàng, không lo được. Bọn cháu sẽ lo chu tất. Chú cứ coi bọn cháu như
con cái của chú.
Ông
Thanh lắc đầu:
-
Không, nhiêu khê đằng khắc kia...
Trần
Hới hiểu ngay ý ông nói:
-
Trước khi đến đây, ba cháu có nói: "Bọn con thử gợi ý xem bác Thanh có nên
tổ chức sinh nhật không?". Cháu nghĩ: sao lại không nhỉ? Chúng ta đang xây
dựng nếp sống mới trên toàn xã hội, tổ chức sinh nhật là một công việc của nếp
sống đó. Lâu nay chúng ta cứ điếu phúng người chết, giỗ chạp ma chay... đấy là
mê tín, đấy là nếp sống cũ cần phải loại bỏ. Chú phải làm, làm đầu tiên, cũng
là cách biểu hiện tư tưởng mới của chú, con chim đầu đàn của huyện.
-
Làm thì làm! - Ông Thanh đập khẽ tay xuống bàn, cười to: - Thử làm con chim đầu
đàn cái xem sao! Kha kha! ...
Nói
thế, cười thế cho vui chứ ông không định thế. Sáng sau ông quên mất. Mãi đến
chiều hôm nay, khi tan cuộc họp thường vụ, ông Lanh (Phó bí thư huyện ủy kiêm Chủ
tịch huyện) đứng lên:
-
Tối nay mời anh em ta đến nhà anh Thanh nhé. Hôm nay là ngày sinh nhật của anh
Thanh.
-
Ủa! - Ông Thanh tròn mắt: - Ai bảo anh thế? Tôi có tổ chức đâu...
Ông
Lanh cười:
-
Xong hết rồi, cứ yên tâm. Thằng Hới nhà tôi đã lo chu tất.
Quả
thế thật. Bây giờ ông chỉ việc bận bộ com-lê đen vào, thế là xong. Vợ chồng
Trần Hới đã lo đủ: đủ rượu, đủ thức ăn ngon và đủ khách. Ông chỉ việc mời thêm Họa
sĩ Tư nữa là được, nhưng giờ này Họa sĩ Tư vẫn chưa đến. Tất cả đang vào cuộc.
Rượu và rượu và rượu... giăng đầy và những cặp mắt lờ đờ vì hơi men.
Bỉ
ngồi ở dãy bàn thứ hai, chùi mép đứng dậy:
-
Thưa anh Thanh, Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy...
Ông
Thanh vui vẻ cắt ngang:
-
Này, ở đây có ai không biết tôi là Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy không nhỉ? Vậy
thì giới thiệu làm gì ông Bỉ ơi!
Bỉ
cười:
-
Vâng! Vâng! Là em... tức là em... nó quen mồm. Có nghĩa là em muốn nói thế này
anh Thanh ạ. Em muốn nói thế này, e hèm, thưa các anh trong thường vụ... Chết,
em lại quen mồm...
Tất
cả cười ra. Trần Hới ngồi cạnh ông Lanh, rỉ tai bố vợ:
-
Thằng ấy nói "kháy" đấy, ba!
Ông
Lanh gật gù:
-
Nói "kháy" là bản chất của bọn văn nghệ.
-
Phải trị ba ạ! - Trần Hới thì thầm.
-
Ờ, cũng phải từ từ. Trị bọn này phức tạp lắm...
Chủ
tịch thị trấn Lê Đức Huy nuốt vội miếng thịt bò chấm nước mắm, không kịp chùi
mép, vùng đứng dậy nói chen ngang Bỉ, giọng đã lè nhè:
-
Thưa anh Thanh, anh Lanh... Thưa các anh chị. Được sự giáo dục của anh Thanh và
anh Lanh cùng bác Thìn kính mến, tụi em ở dưới cơ sở là cứ sáng mắt ra. Trước
đây nghe nói: "ai thắng ai" cứ lơ mơ. "Ai thắng ai" là cái
quái gì nhỉ. "Ai" rồi lại thắng "ai", hơ, nghe buồn cười
quá! Thưa anh Thanh, anh Lanh cùng các anh chị! Em bây giờ rõ lắm! Em là em
cùng với các đồng chí trong thường vụ Đảng ủy thị trấn quyết ra tay. Chẳng nhẽ
mỗi chuyện "ai thắng ai" mà lâu thế. Ở đâu không biết, chứ thị trấn
này chỉ một năm nữa là biết rõ "ai thắng ai" cho mà xem!
-
Hoan hô!
Tiếng
hoan hô ầm ầm.
Cốc!
Tách!... Cốc! Tách!... Cốc! Tách!... Cho tới khuya. Đang vui, đang tranh nhau
nói, phì cả nước bọt vào nhau, về vấn đề "ai thắng ai" bỗng mọi người
giật mình: Có tiếng đá rơi xuống mái ngói, mỗi lúc một nhiều, tới tấp.
-
Thằng nào ném đá! - Chủ tịch thị trấn xắn tay áo xăm xăm bước ra.
-
Thằng nào ném đá vào nhà Bí thư huyện ủy! Ông là ông gô cổ! - Chủ tịch thị trấn
bước nhanh ra ngõ.
-
Anh Thanh ơi là anh Thanh ơi! Em yêu chủ nghĩa xã hội lắm anh Thanh ạ. Đứa
nào
chống lại chủ nghĩa xã hội là em ném đá bỏ mẹ nó đi!
Họa
sĩ đứng trước ngõ nhà ông Thanh gào to. Vừa gào, Họa sĩ vừa nhặt những hòn đá
bằng nắm tay ném lia lịa vào nhà.
-
Này, anh kia! Làm cái trò gì thế hả? - Chủ tịch thị trấn gầm lên.
Họa
sĩ Tư dừng lại, đột nhiên cười to, chạy đến ôm chầm lấy ông Huy.
-
Ối giời ơi, bác Huy! Em tưởng là ai... Bác Huy ơi bác Huy, em yêu Chủ nghĩa Xã
hội lắm. Trong nhà có đứa nào chống lại Chủ nghĩa Xã hội thì bác cứ để đấy cho
em. Em là em... ném đã vỡ mặt! Bác Huy ơi, bác Huy... cuộc đấu tranh "ai
thắng ai" gay go lắm bác Huy ạ. Em hiểu rồi, không ném đá không thắng nổi
đâu.
Ông
Huy đứng trơ ra, không biết làm gì. Đang ở thế tiến công bỗng chốc bị tiến
công, ông lúng túng như gà mắc tóc. Ông chỉ còn biết cố giẫy hai chân mình ra
khỏi "vòng ôm tha thiết" của Họa sĩ.
Đám
đông trong nhà Bí thư huyện ủy đã giải tán. Họ xô cả ra ngõ.
-
Gô cổ nó lại! - Một người nói.
-
Tôi sợ mấy thằng văn nghệ sĩ lắm, chúng nó nói một lời mà lắm nghĩa, nguy hiểm
lắm. - Một người khác nói.
Bỉ
lách đám đông đi ra, nom thấy Họa sĩ Tư đang ôm đầu gối ông Huy, chậc lưỡi:
"Mẹ, thằng này táo gan thật!", rồi vội vàng lật cánh chuồn thẳng.
Đám
đông không ai chịu rời Họa sĩ, mỗi người một câu đòi "dứt điểm" ngay
với Họa sĩ.
-
Còn để nó ở huyện nhà, nhất định có ngày nó làm xấu uy tín của Đảng cho mà xem!
Đám
đông lao xao.
Bí
thư huyện ủy đi ra, ông nhìn vào đám đông một lượt, từ tốn nói:
-
Các anh về đi, để Họa sĩ đó cho tôi.
Ông
quay lại, gọi to:
-
Hoàng! Đem chú Tư vào nhà.
Mọi
người lẳng lặng giải tán.
Vợ
chồng Trần Hới đi cạnh ông Lanh.
Trần
Hới hỏi ông Lanh:
-
Hắn là ai, ba?
-
Một họa sĩ ở tỉnh về nghỉ hưu ở thị trấn.
-
Hắn ăn nói như một thằng phản động. - Trần Hới bình luận.
Ông
Lanh gật gù:
-
Ờ, phản động quá còn gì!
-
Không ai làm gì hắn cả, ba?
-
Ờ, cũng phải từ từ.
Trần
Hới thở dài:
-
Việc gì cũng từ từ, con sợ...
Ông
Lanh vỗ vai Trần Hới:
-
Đấy là vấn đề tế nhị. Với thằng ấy thì chỉ nửa giờ là xong. Có điều, hắn lại
thân ông Thanh.
-
Thế à? - Trần Hới kêu lên.
-
Đấy! Phức tạp lắm! Phức tạp lắm! Mai mốt lên huyện làm việc con sẽ thấy.
Trần
Hới quay lại phía vợ:
-
Đấy! Ba cho anh lên huyện đoàn rồi đấy!
Cam
dài giọng:
-
Ba đã hứa với em từ lâu rồi!
Trần
Hới cầm tay Cam "bấm" một cái. Hai người dừng lại. Anh ôm ghì Cam hôn
dài lên cái mặt tròn phẹt của vợ, thầm thì "Cám ơn em. Bao giờ em cũng là
vợ quý của anh". Cam ứa nước mắt, bao giờ gặp cái hôn của Trần Hới cô cũng
ứa nước mắt.
Ông
Lanh đi trước, nghĩ thầm: "Mẹ, thanh niên bây giờ sướng thật, hôn hít khắp
nơi. Chẳng bù cho cái thời mình còn trẻ, cứ động phải cái lông tơ của đàn bà là
bị "cạo" đến trắng xương!".
Lúc
này đã một giờ sáng.
Lúc
này đã một giờ sáng.
Họa
sĩ được Hoàng dắt vào nhà đang ôm cột nhà thở dốc, tóc rũ xuống, mặt xanh tái
như người vừa qua cơn sốt rét.
-
Vào uống nước đã!
Ông
Thanh ra hiệu với Họa sĩ, vui vẻ lấy ấm xốc bã chè, pha chè mới. Họa sĩ không
tiến thêm bước nào, cứ thế nói, giọng như kẻ sắp chết.
-
Anh Thanh này, anh hãy nói cho tôi rằng thì là... Tôi sẽ sống như thế nào. Ví
dụ như là...
-
Ô kìa, vào uống nước đã. Gì mà cứ lầm rầm ngoài hiên thế.
Ông
đến, gỡ tay Họa sĩ ra khỏi cột nhà, dìu đến bên bàn nước.
-
Khỏi cần, anh Thanh. Anh cứ ngồi, tôi cứ đứng. Nhiệm vụ của anh là ngồi, ngồi
cho đúng ghế...
-
Lảm nhảm cái gì thế? Vào uống nước đã! - Ông cười hề hề, lôi đại Họa sĩ vào bàn
trà, ấn xuống ghế. - Đấy, bây giờ muốn nói gì thì nói. Tửu lượng hơi nhiều phải
không?
-
Hơi nhiều nhưng không say đâu, anh Thanh. Tôi không lảm nhảm đâu, anh Thanh.
Tôi hỏi nghiêm túc đấy, anh Thanh. Ví dụ như, tôi sẽ sống như ai, anh Thanh.
Như anh, như anh của tôi hay như tôi, anh Thanh?
-
Hà, gay đấy. Quá nửa đời người rồi mới đi hỏi mình sẽ sống ra sao. Thằng Hoàng
của tôi nó cũng không hỏi tôi như thế đâu nhé!
-
Nó không hỏi thì tôi hỏi, anh Thanh. Cái số mạng của tôi nó khốn nạn hay nghề
của tôi nó khốn nạn? Anh trả lời đi, anh Thanh. Bí thư huyện ủy thì cái mả mẹ
gì mà chẳng biết, anh Thanh...
Ông
Thanh phì cười, biết Họa sĩ quá say, ông không nói thêm gì nữa, rót nước uống
một mình. Họa sĩ hỏi đi hỏi lại câu hỏi ấy. Cứ "anh Thanh", "anh
Thanh"... cho đến lúc nghẹo cổ lịm đi trên ghế tựa dài nhà Hoàng.
Hoàng
đứng tựa vào cái tủ lớn theo dõi thái độ của ba mình. Có cái gì như là sự khờ
khạo và ngớ ngẩn khi ba anh đối diện với Họa sĩ Tư. Không phải lần này, nhiều
lần trước đó cũng vậy. Mỗi bận Họa sĩ bắt ông phải trả lời một câu hỏi nào đó
là ông lại xoa xoa tay, nói nói cười cười, đánh trống lảng, cố gắng rút lui
trong thế ôn hòa nhất. Ba Hoàng, Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, không phải là
bí thư mít đặc (theo cách nói của Họa sĩ Tư). Ông là người có học, thậm chí là
người có học nhất trong đội ngũ những cán bộ ngang cấp với ông trong tỉnh. Khắp
huyện này không ai có bằng tú tài như ông. Bởi vì ông không phải loại cán bộ mã
tấu, gậy tầm vông tham gia cách mạng từ thuở một chữ bẻ đôi không biết. Dân
Phan Long (một xã ven thị trấn) còn nhớ như in ông tú tài hai mươi bốn tuổi vừa
được dân làng rước về, cờ đèn kèn trống suốt ba mươi chín cây số từ tỉnh lị về
quê, được mười tám ngày thì Tổng khởi nghĩa tháng Tám bùng nổ, ông rũ sạch vinh
quang mà bao nhiêu tráng đinh trong làng, cả những thư sinh con nhà loại giàu
có nhất huyện này nằm mơ cũng không thấy, để xắn quần móng lợn hướng đỉnh Chóp
Chài theo cách mạng. Hoàng hiểu ba anh được liệt vào loại người vừa danh lại
vừa giá, chứ không phải thuộc loại chỉ có "tấm lòng cộng sản" còn lại
tất cả chỉ là một con số không rỗng tuếch. Ông có khả năng phân tích rành mạch
và chính xác các sự kiện lịch sử trong nước và thế giới. Napeoléon là kẻ như
thế nào, Xtalin là người ra sao, cả Spartacus cũng vậy... rành mạch và rõ ràng
như họ là bạn bè thân quen của ông vậy. Nhiều lần ông giảng giải cho Hoàng nghe
các giai đoạn của văn học Pháp, Anh, Nga và các trường phái nghệ thuật đang
diễn ra trên thế giới. Đôi khi vui miệng, ông còn kể cho Hoàng nhiều giai thoại,
chuyện đời tư của các nhà văn, các nghệ sĩ và các nhà khoa học tài ba trên thế
giới. Không biết học từ lúc nào mà đầu ông như một thư viện lớn, cần "ô
ngăn" nào là ông kéo ra ngay: chính xác và rành mạch. Nhìn vào "thư
viện" của ông là Hoàng ngao ngán. Biết bao giờ, có lẽ cần phải hai cuộc
đời của Hoàng chập lại mới có được những hiểu biết như ông. Một lần Hoàng hỏi
ông:
-
Làm thế nào ba biết nhiều như vậy?
Ông
cười:
-
Học.
Và
nói thêm:
-
Biết nhiều chỉ thêm đau khổ.
Rồi
cười to, cố tình khuất lấp điều ông vừa phát thành tiếng. Ông thực sự có năng
khiếu về sự cười. Bất kỳ lúc nào cũng có thể cất tiếng cười "ha ha
ha" đầy sảng khoái. Có một điều gì đè nặng trong lòng, nó làm cho ông hoặc
khó chịu hoặc sợ hãi, khiến ít khi ông được thoải mái. Ông có hai đời sống. Một
đời sống giả tạo với mọi người: luôn luôn nói cười vui vẻ và yêu đời như mọi kẻ
thành đạt vẫn yêu đời. Một đời sống thực, đầy chán nản, buồn bực, ưu tư và lạnh
lẽo khi một mình ông với cái bóng của mình. Như lúc này chẳng hạn, ông đi lại
giữa những khoảng trống của ngôi nhà năm gian, tay bóp trán, mặt nhăn nhó như
người mắc bệnh loét dạ dày. Thỉnh thoảng ông ngước nhìn Họa sĩ Tư đang nằm còng
queo trên chiếc ghế dài, khẽ thở dài.
Hoàng
chỉ nhìn thấy vẻ chán chường biểu lộ trên gương mặt của ông chứ chưa đủ mẫn cảm
để nhận biết trên đó còn ẩn náu nỗi đau của một người muốn sám hối nhưng không
dám. Tuổi trẻ chưa nhiều khả năng lưu trữ các nỗi đau, một lát sau Hoàng lịm đi
trong tư thế nửa nằm nửa ngồi bên chiếc tủ lớn. Chỉ còn lại ông Thanh với đống chai
lọ, chén bát ngổn ngang, mấy cái đèn măng-sông chói sáng, mấy chục lọ hoa hồng
chỏng chơ, vô duyên giữa đống giò, chả, bún bánh...
Cuộc
vui đã chấm dứt. Cuộc vui vô nghĩa đã chấm dứt, chỉ mùi của nó hãy còn, mỗi lúc
một ngậy lên đến buồn nôn. "Đời là tiệc, tiệc là tàn ly cốc đổ". Họa
sĩ Tư vẫn thường hát thế, và bây giờ ông Thanh vừa đi vừa lẩm nhẩm lại. Ông xoa
xoa hai bàn tay, lắc đầu chán ngán... Lại xoa xoa hai bàn tay, lắc đầu chán
ngán. Trên kia, trên bàn thờ thâm nghiêm, đôi mắt dịu dàng của vợ ông đang nhìn
xuống. Không biết vợ ông đang nhìn xuống ông hay nhìn xuống Họa sĩ Tư. Ông mỉm
cười: "Ờ nhỉ, không biết nhìn xuống ai..."
-
"Thời ấy đã qua rồi... Bây giờ nhìn xuống ai mà chẳng được..."
-
"Cái thời khốn kiếp của mình. Tại sao thời ấy mình lại bẩn thỉu như vậy
nhỉ?..."
Có
một tiếng cười bỗng vang lên trong ký ức xa vời của ông. Rõ ràng thời đó ông đã
chơi một trò đểu với Họa sĩ. Chính ông đã vu cáo Họa sĩ, qua miệng một người
khác, về các hành động được quy là "dâm ô trụy lạc" của hai người (vợ
ông và Họa sĩ), buộc Họa sĩ phải di chuyển công tác, tạo một khoảng hở cần
thiết cho ông tấn công quyết liệt vào người đàn bà đẹp nhất chiến khu Chóp
Chài, đấy là vợ ông - Mẹ Hoàng về sau. Đó cũng chỉ là trò đểu cổ điển mà những
thằng khốn nạn vẫn hay sử dụng để chiếm đoạt tình yêu từ kẻ khác. Cũng như sau
này, khi vợ ông ăn nhầm nấm độc mà chết để lại đứa con trai một tuổi giữa rừng
già trong lúc ông đi xa, thì người đàn ông bị ông giáng một cú nốc ao bằng trò
đê tiện để giành phần thắng về mình trong cuộc ganh đua vì tình, đã bồng ẵm,
nuôi nấng đứa bé suốt thời gian khổ nhất cho đến khi được gặp ông, thì cũng là
một hành động nghĩa hiệp cổ điển mà những người nhân đức vẫn thường làm.
-
"Tất cả vẫn xưa cũ như quả đất, Ha ha ha!..."
Vẫn
tiếng cười quái ác vang lên khiến ông giật mình.
-
"Ờ nhỉ, tất cả chỉ là những trò cổ điển!..."
Ông
xoa xoa hai bàn tay, đầu gật gật... lại xoa xoa hai bàn tay, đầu gật gật...
-
"Chỉ riêng việc thẩm định giá trị các trò này, hình như mỗi ngày một mới
hơn, lạ lùng hơn, quái ác hơn..."
Suy
từ đời ông và đời Họa sĩ Tư thì biết.
Ông,
mỗi ngày mỗi "giá trị" hơn. Ngày mỗi ngày ông bình thản bước từ nấc
thang giá trị này lên nấc thang giá trị khác, thoải mái nhẹ nhàng cho đến tận bây giờ. Họa sĩ cứ tụt dần, tụt
dần... cho đến lúc trước mắt người đời Họa sĩ chẳng có một không phẩy
giá trị nào hết, chỉ là một "thằng hâm", "thằng gàn",
"thằng phá hoại"...
Vẫn
đôi mắt dịu dàng của vợ ông từ trên bàn thờ thâm nghiêm đang nhìn xuống. Ông
thấy lúng túng và xấu hổ, giống một đứa trẻ nhiều tội đang đứng trước đôi mắt
dịu hiền của mẹ mình. Thốt nhiên ông muốn khóc, muốn òa khóc nức nở như trẻ
nhỏ. Thốt nhiên ông lại giận run lên. Ông muốn đập một cái gì đó cho nó vỡ tan,
một cái gì đó thuộc về phần quá khứ nhơ bẩn của ông nhưng không được, chịu! Tất
cả đã rắn lại, vì thời gian làm tất cả đã rắn lại, trơ như đá.
Đã
bốn giờ sáng. Bỉ chạy xộc vào, tóc tai bù xù, hổn hển nói:
-
Mời anh về văn phòng huyện ủy...
-
Có chuyện gì thế?
-
Điện khẩn của tỉnh ủy: có khả năng địch sẽ đem máy bay oanh tạc vùng chúng ta.
-
Thế à?
Ông
sững lại chút ít, nhanh chóng chuyển từ một kẻ cô độc, già nua thành một Bí thư
huyện ủy giàu kinh nghiệm, một thủ lĩnh tài giỏi của xã hội mười vạn dân, chuẩn
bị bước sang cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù ghê gớm nhất hoàn cầu. Ông
lạnh lùng nhìn Bỉ, hất hàm hỏi:
-
Tỉnh ủy điện lúc mấy giờ?
-
Thưa anh, hai giờ ba mươi lăm... Vụ "Vịnh Bắc bộ" đã nổ ra, đài vừa
thông báo.
-
Tôi có biết. Đi.
Họ
đi. Kẻ đi trước người chạy sau, ngụp lặn giữa lớp sương dày tháng Tám năm 1964.
Chương sáu
Bức
tranh "Trăng thượng huyền" đã trao tận tay thím Hoa trót lọt, không
ai trông thấy. Khi đó vào khoảng chín giờ sáng, nhà chỉ có thím Hoa đang ngồi
may. Hoàng đã dò xét trước, biết chắc Thùy Linh giờ này đã đi chợ chuẩn bị làm
cơm trưa, Đại úy Thìn tuần này không về - tình hình chiến sự khá căng thẳng đã
buộc chân ông ở lại đơn vị. Hoàng lẻn vào. Đúng là lẻn vào thật vì anh không
vào cổng chính. Đáng ra cứ xách bức tranh ngang nhiên đi vào cổng chính cũng
chẳng sao, nhưng khi đến gần cổng Hoàng bỗng thấy hồi hộp ghê gớm và sợ, một
nỗi sợ ngớ ngẩn buộc Hoàng rẽ trái đi vòng lối vườn nhà, lối mà Hoàng đã bò vào
xem trộm qua cửa sổ đêm Đại úy Thìn cột dính lưng Họa sĩ Tư và thím Hoa.
-
Thím!
Hoàng
đứng sau lưng thím bất ngờ gọi - Dọa một chút cho vui. - Thím Hoa giật bắn
người, quay vụt lại:
-
Ối... Ma bắt thằng này! Làm thím hết hồn. Đi vào lối nào thế, cháu?
Hoàng
cười:
-
Đi vào lối mà bọn ăn trộm sẽ vào nhà thím một ngày không xa... Chà, nhà
"quân sự" mà gác xếch sơ hở quá!
Không
chú ý lắm câu nói đùa khá nhạt của Hoàng, thím Hoa dán mắt vào cái mà anh đang
cầm trên tay: bức tranh được cuộn tròn, bọc kín giấy báo.
-
Cái gì thế?... - Thím rụt rè hỏi.
Hoàng
không trả lời, đưa bức tranh cho thím. Thím đỡ lấy, lập cập tháo gỡ giây buộc.
-
Tranh hả? Đúng là tranh không?
Hoàng
cố tình không trả lời, mọi sự trả lời đều thừa. Anh chú ý quan sát thím Hoa. -
"Xem tuổi già họ yêu nhau ra làm sao".
Bức
tranh đã được thím giăng rộng. Thím ngồi lặng trước bức tranh, mặt tái đi. Mười
phút sau, thím ngẩng lên, môi run run:
-
Chú Tư bảo cháu đưa đến phải không?
-
Vâng. Chú ấy dặn thím giấu đi.
Thím
nhìn Hoàng, ngơ ngác như một học trò đần độn trước lời giải thích đơn giản của
thầy giáo. Hoàng nhắc lại, thím vẫn lơ ngớ, chưa hiểu ra làm sao.
-
Chú Tư bảo cháu đưa đến đây phải không?
-
Vâng.
-
Thế rồi cháu đưa đến đây?
-
Vâng.
-
Thế rồi... chú ấy bảo thế nào nhỉ?... Cất đi phải không?
-
Vâng, chú ấy dặn thế.
-
Thế à? Cất đi à?...
Thím
đưa tay run rẩy lần dò khắp bức tranh, cố phát hiện xem còn gì đằng sau đó nữa
không. Không thấy gì, tất nhiên. Thím lại ngước lên, ngơ ngác.
-
Thế rồi... chú Tư có dặn gì nữa không?
-
Không. Chú ấy chỉ dặn thím xem xong thì cất đi ngay.
-
Thế à? Không dặn gì nữa à?
-
Vâng.
-
Cất đi chứ gì... đúng không cháu?
Sốt
ruột quá Hoàng kêu lên:
-
Khổ quá, cháu đã nói rồi mà thím cứ hỏi mãi!
Thím
Hoa sực tỉnh, đứng ngớ ra một chút, rồi uể oải tiến đến, đặt tay lên vai Hoàng,
thì thầm:
-
Xin lỗi cháu. Tại vì bất ngờ quá cháu ạ. - Ngẫm nghĩ một lát, thím lại thì
thầm. - Cháu có hiểu thím không Hoàng?
-
Hiểu cái gì ạ?
-
Là hiểu thím ấy... ví dụ như là có khinh thím không?
Hoàng
gãi đầu:
-
Cháu còn con nít. Chú Tư bảo cháu đưa cho thím thì cháu đưa, chứ cháu có nghĩ
ngợi gì đâu.
Thím
lắc đầu, mắt chớp chớp. Hoàng rời thím, đến chiếc chõng tre, ngồi xuống. Thím
đi theo, ngồi xuống cạnh.
-
Cháu khôn rồi. Thím biết. Trong việc này... cháu có chính kiến của cháu...
-
Chuyện gì kia ạ? Cháu chả hiểu gì cả...
Hoàng
vờ ngơ ngác nhìn thím. "Thôi đừng vờ nữa!" - đôi mắt thím nhìn Hoàng.
"Thím biết quá kỹ rồi, hỏi cháu làm gì?" - đôi mắt Hoàng nhìn thím.
"Nhưng thím thích được nghe cháu nói." - "Cháu biết nói gì
đây." - "Ờ, có bao nhiêu là chuyện. Ví dụ một lời khuyên của
cháu..."
Hoàng
cúi đầu, buồn rầu nói:
-
Thím muốn biết cháu nói gì phải không? Cháu nói thế này nhé! Thùy Linh rất đau
khổ. Nếu câu chuyện của thím và chú Tư tiếp tục... thì cô ấy sẽ chết được. Cô
ấy chưa chịu được đau khổ... cháu biết cô ấy chưa chịu được đau khổ.
Hoàng
ngừng lại. Thím Hoa nín thở chờ đợi. Thím không ngờ một chú bé mới lớn lại nói
năng nghiêm chỉnh đến thế. "Như người lớn." - Thím nghĩ - "Trẻ
con bây giờ thật kinh không".
Hoàng
tiếp tục, anh biết thím đang đợi anh tiếp tục:
-
Còn cháu, cháu chả giận chả khinh gì hết... Nhưng thú thực cháu không hiểu gì
hết, cháu sợ... Cháu vừa khâm phục vừa ghê tởm. Vì sao như vậy thì cháu không
biết. Không biết thật chứ không phải cháu giả vờ...
-
Ờ...
Thím
Hoa úp hai bàn tay lên mặt, gục xuống. Hai bờ vai thím rung rung. Thím khóc
thầm. Nước mắt lọt qua kẽ tay rơi từng giọt một. Hoàng ngồi im thêm một vài
phút nữa, không nghe thím nói gì thêm, bèn chống gối đứng dậy.
-
Thôi, cháu về đây...
-
Ấy, khoan...
Thím
giật mình đứng bật dậy, vội vàng kéo áo Hoàng:
-
Ngồi với thím thêm ít nữa, cháu! Thím... thím sẽ trình bày... thật, thím sẽ
trình bày...
Hoàng
ngồi lại, hồi hộp chờ đợi thím Hoa sẽ tiết lộ gì với anh về cuộc tình nguy hiểm
của thím. Thím rót một cốc nước đầy, tu sạch. Dằn mạnh cốc xuống bàn, thím
ngước lên. Toát ra trên gương mặt đầm đìa nước mắt của thím vẻ kiêu hãnh của
những người đàn bà quyền quý luôn sợ bị sỉ nhục. Không nhìn Hoàng, thím nói,
giọng đanh lại, độc ác và cay nghiệt.
-
Cháu có biết vì sao thím lại như này không? Không biết chứ gì? Đúng thế. Không
ai có thể biết, không ai cả! - Thím rít lên thở hồng hộc. - Không ai biết bởi
người đời, thím muốn nói cái lũ người đời khốn nạn ấy, luôn luôn làm rối lên
trong những việc đơn giản nhất. Tức là gì? - Thím đập tay xuống bàn. - Tức là
chúng nó sợ phức tạp, sợ rắc rối nhưng lại nghi ngờ tất cả những gì dễ hiểu,
đơn giản. Nghịch lý, nghịch lý ghê tởm. - Thím ngừng ngắn, hạ giọng. - Đơn giản
thế này thôi: thím hát một câu: tư sản! Ngâm thơ một bài: tư sản! May cái váy
ngủ cho thoáng: tư sản. Không, không phải như thế. - Thím lắc đầu, bối rối tìm
từ diễn đạt. - Như thế nào nhỉ? À... Tất cả những gì thím biết được, đọc được,
nghe được, thấy được mà thích thú là tư sản tất cháu ơi! - Thím thay đổi sắc
mặt, từ kiêu hãnh, khinh khi sang một vẻ gì đó mà Hoàng không biết được. Chỉ
biết gương mặt thím nửa thì căng lên, đỏ ửng; nửa thì nhăn nhúm, méo xệch. - À
quên, như thế này nữa chứ; Thùy Linh cũng vậy cháu ạ. Bao nhiêu đôi guốc cao
gót thím sắm cho nó, bị chẻ sạch. Cháu ơi, tất cả cái gì chế độ cũ để lại đều
thối nát, bẩn thỉu... Chỉ có chế độ mới là sạch sẽ thơm tho. Ông ấy nói như vậy
đấy. Ông ấy là ai? Tức là chồng thím. - Thím bắt đầu mếu máo, vừa nói vừa khóc.
- Ông ấy giáo dục thím đủ điều: ăn, uống, nói, cười, vui chơi, đi đứng... nhất
nhất phải đứng trên quan điểm giai cấp vô sản. Ối chao ôi, cả ngủ nữa cháu ạ.
Ngủ cũng phải như thế, nhất cử nhất động, răm rắp... răm rắp... Cháu ơi người
ta nói đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản chứ có ai nói nằm trên quan điểm
giai cấp vô sản đâu cháu! Hu hu hu...
Thím
Hoa khóc rống lên. Vật vã. Lăn xả lên giường gào thét. Hoàng lẳng lặng rút lui.
Sờ lên trán thấy mồ hôi dầm dề...
*
* *
Thị
trấn Linh Giang nhận được hai tin quan trọng làm bùng nổ hàng loạt các cuộc
"tọa đàm" râm ran khắp thị trấn. Đó là "sự kiện vịnh Bắc
bộ" khởi đầu một cuộc chiến tranh từ trên trời rơi xuống và sự kiện Bí thư
huyện ủy Trần Văn Thanh say rượu tại quán thịt chó Cule.
"Sự
kiện vịnh Bắc bộ" khỏi cần nhắc đến vì nó được nhắc đến trên nhiều sách
báo và vì sự xôn xao của dân thị trấn cũng giống sự xôn xao ở mọi nơi thời này.
Còn việc bí thư huyện ủy say rượu thì...
Đại
úy Thìn nói:
-
Bí thư huyện ủy say rượu, thật kinh khủng. Còn gì là thanh danh của một người
đứng đầu huyện này? Vai trò người Đảng viên cộng sản để đâu?
Chủ
tịch thị trấn Lê Đức Huy gật gù:
-
Mất uy tín! Mất uy tín! Thật chẳng còn gì là thanh danh.
Bác
Cả Rí cầm xâu lươn vòng vòng khắp thị trấn, dừng lại ở các đám đông đang bàn
tán, vểnh tai lên nghe, lại đi. Thỉnh thoảng bác nói chõ vào:
-
Toàn Đảng toàn dân say rượu! Tôi dám chắc như vậy, không say rượu thì say gì,
hả? Mẹ, rượu đắt bỏ bố, uống mà không say là ngu, vứt tiền qua cửa sổ!
Nơi
khác, bác lại nói:
-
Ai say rượu cũng được tất, trừ bác Thanh. Bác Thanh mà say thì còn ai để xây
dựng Chủ nghĩa Xã hội! Nguy, vận nước lâm nguy!
Riêng
Bỉ cứ tủm tỉm cười. Ai hỏi gì cũng tủm tỉm cười không nói gì. Trần Hới trầm
tĩnh hơn, phát biểu sự kiện này, anh cân nhắc khá kỹ lưỡng, gần như đếm từng
chữ một.
-
Chúng tôi thấy vấn đề này cần phải được đem ra thảo luận trong Đảng bộ, bởi vì
nó động đến một vấn đề lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Đó là sự sa sút nghiêm
trọng ý chí tiến công cách mạng của người Đảng viên cộng sản. Thêm vào đó, nó
chứng tỏ sự tha hóa vô bờ bến của bác Thanh. Vấn đề là tìm cho ra nguyên nhân
dẫn đến sự sa sút này.
Bỉ
tủm tỉm cười, luôn luôn tủm tỉm cười. "Đòn thứ nhất của Trần Hới",
anh nghĩ. Nghĩ xong lại tủm tỉm cười, không nói gì. Cách đó mấy hôm, đi ngang
qua văn phòng ủy ban, Bỉ nghe mấy chị em văn thư bàn tán về việc Trần Hới được
"nhấc" lên chứ Phó Bí thư huyện đoàn, anh xoa xoa tay nói một mình:
-
Mẹ khỉ! Tay này giỏi đổi chác thật.
Ai
nghe cũng không hiểu Bỉ định nói gì. Thường thì Bỉ chỉ nói lấp lửng rồi cười,
toét miệng vui vẻ như chẳng có gì quan trọng cả. Nhưng nếu ai chịu khó nghĩ một
chút đều hiểu Bỉ đang nói về cuộc đổi chác thông minh của Trần Hới: ông Lanh
"ném" đứa con gái xấu xí của mình cho Trần Hới, một anh chàng đẹp
trai có một không hai ở thị trấn này, và Trần Hới đã đón nhận khá vui vẻ. Thế
đấy! Vậy nghĩa là thế nào? Nghĩa là bây giờ Trần Hới đã nhảy lên chức vụ mới, cũng
chưa thơm tho gì cho lắm nhưng cũng là chức vụ khó kiếm. Trong thời buổi
"người nhiều ghế ít" này, cái ghế ấy chẳng phải ai cũng kiếm được
đâu! Ấy là Bỉ nghĩ thế, nghĩ thế chứ chẳng bao giờ nói thế. Bỉ chỉ tủm tỉm
cười, dạ ran mỗi khi Trần Hới gọi. Nói chung cán bộ nào trong Ủy ban huyện gọi,
Bỉ cũng dạ ran. Anh hiểu, một cách sâu sắc, rằng Phòng Văn hóa Thông tin của
anh là phòng phục vụ chính trị các ngành khác, các ban phòng khác. Vậy ai gọi
cũng phải "dạ" chứ sao?
-
Ối giời ơi, tôi chóng mặt quá!
Cule
kêu toáng lên khi Bỉ bước vào quán.
-
Cái gì đấy? - Bỉ hỏi.
-
Dồi chứ? - Cule hỏi lại.
-
Dồi, lần này thì dồi. Dồi cho nó chết mẹ nó đi chứ nó bẩn
lắm! - Bỉ khoát tay nói như quát.
-
Tốt rồi! - Cule vỗ tay, bước nhanh vào trong nhà trong, nói với ra: - Ối giời
ơi, tôi chóng mặt quá!
Bỉ
chùi mồ hôi trán, ngồi gật gù một mình. Cule bưng đĩa dồi "sum sê"
bước ra. Bỉ hỏi:
-
Bác chóng mặt cớ làm sao?
-
Ối giời ơi, thế mà bác cũng hỏi em! Là vì người ta lên chức vù vù mà em thì cao
huyết áp...
-
Ha ha... được!
Bỉ
đập tay xuống bàn, mặt mày rạng rỡ vì tìm được người tâm đắc. Dáng bẽn lẽn,
Cule thì thầm:
-
Em định nói với bác điều này mà em ngượng quá!
-
Tức là sao?
Cule
ghé miệng vào tai Bỉ thả từng tiếng một:
-
Nếu bác muốn lên chức thì bác cứ hủ hóa đi, đắc sách đấy!
Bỉ
cười, văng cả miếng dồi chó xuống bàn. Anh biết Cule đang nói Trần Hới về vụ
"học trò cấm cãi" dạo Trần Hới còn là giáo viên dạy toán ở trường cấp
ba huyện. Bỉ chùi mép, ghé miệng vào tai Cule:
-
Tôi muốn bỏ mẹ nhưng tôi sợ. Tôi nhát lắm. Tôi hủ hóa với vợ tôi mà còn sợ run
lên nữa là...
-
Bi kịch! Bi kịch đó, bác ơi! Ối giời ơi, em chóng mặt quá.
Cule
ôm đầu nhăn nhó, đứng ngóng ra đường. Bỉ vét nốt miếng dồi chó cuối cùng, bước
ra quán. Chiều nay trừ Bỉ ra không có khách. Tối đến vẫn không có khách. Đến
tám giờ tối thì có người gõ cửa.
Cule
ra mở cửa và đứng như trời trồng. Lần đầu tiên Cule thấy lúng túng khi đón một
khách nhậu. Ông đứng dịch ra cho khách vào, lặng lẽ quan sắt sắc diện của
khách, không hỏi gì nói gì. Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, "khách nhậu
tám giờ tối", lần đầu tiên bước vào quán thịt chó Cule. Ông ngồi xuống,
dáng mệt mỏi và chán chường. Cule không hỏi gì nói gì, ông cũng vậy, khoảng
mười phút sau ông mới lên tiếng:
-
Còn gì nhắm nữa không?
-
Thưa có. - Cule lập cập trả lời.
-
Gì?
-
Thưa đủ cả... thưa ngày nay em ế khách...
-
Ờ, chiều nay nóng dữ...
Cuối
cùng các món nhậu đã dọn ra. Bí thư huyện ủy nhậu say sưa, ăn một mình uống một
mình mà say sưa như đang nhập cuộc với những người tâm đắc. Cule ngồi cạnh chờ
sai vặt và chú ý thái độ của ông. Ông uống hết một chai ba rượu, lại gọi thêm
một chai bảy...
-
Thưa, rượu nặng lắm!
-
Tôi biết...
Bí
thư huyện ủy khoát tay ra hiệu Cule đừng dính vào cuộc nhậu của ông. Ông cần
yên tĩnh, yên tĩnh tuyệt đối. Bây giờ ông chỉ thích đối diện với chai rượu, có
vậy thôi. Suốt đời ông đã đối diện với nhiều người, những cuộc đối thoại liên
miên làm ông chán nản đến kinh khủng. Ông uống từng chén một, từ từ, từ từ...
Lại thêm một chai bảy nữa... Cule thè lưỡi: "Một bợm rượu hảo hạng mà mình
không biết trời ạ!" Bí thư huyện ủy không hề để ý đến Cule, cứ uống liên
miên, từng chén một, từ từ, từ từ...
-
Thưa, rượu nặng lắm!
-
Tôi biết...
Bí
thư huyện ủy lại khoát tay ra hiệu cho Cule hãy im đi, im hẳn đi. Bởi vì trước
mặt ông bây giờ không phải là Cule mà là Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy. Ông phải
trả lời thật trung thực ba việc bị chất vấn:
1.
Vì sao tự ý thả Họa sĩ Tư ra?
2.
Vì sao lại tổ chức ngày sinh nhật rầm rộ?
3.
Vì sao bị địch bắt trong quá trình công tác mà không khai báo?
Ông
trả lời, rành mạch và cương quyết, rằng Họa sĩ không có tội gì, ít ra cũng theo
quan điểm của ông; rằng ngày sinh nhật của ông là không phải do ông tổ chức,
người ta tự ý tổ chức và bắt ông nhập cuộc; rằng quả là ông bị địch bắt trong
khi đi công tác nhưng chỉ một giờ sau là ông trốn thoát được và vì thế ông
không khai báo. Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy cười. Tiếng cười báo cho ông biết
ông thật ngây thơ, ông là Bí thư huyện ủy mà thật ngây thơ...
Ông
phải làm bản tự kiểm điểm, Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy yêu cầu. Ông gầm lên:
"Tôi không làm! Tôi có khuyết điểm gì mà phải kiểm điểm". Trưởng ban
tổ chức Tỉnh ủy cười, nhẹ nhàng nói: "Đây là yêu cầu của Thường vụ. Anh
làm hay không, tùy anh...".
Và
ông hiểu, một cách sâu sắc, rằng chữ "tùy" ấy có sức nặng thế nào.
Ông viết, viết một lèo bản tự kiểm điểm dài mười hai trang cốt để làm mờ cái
chữ "tùy" ấy đi. Lúc đầu ông viết rất khó khăn, mặt nhăn nhó. Sau,
ông viết rất nhanh, vừa viết vừa cười, cười ha hả. Xong, ông vứt bút đi một
mạch ra quán thịt chó Cule...
Ông
uống, từng chén một, từ từ... cho đến khi ông thấy một Đại úy Thìn bỗng tách ra
thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu... Ông hốt hoảng
định bỏ chạy, nhưng chưa kịp đứng dậy ông đã ngã nhào xuống đất.
-
Cứu! Cứu Bí...!
Cule
kêu ầm lên, co cẳng chạy lên huyện ủy. Đến nửa đường, Cule đứng lại ngẫm nghĩ
và quay lui. Khi bước vào quán đã thấy Bí thư huyện ủy ngồi dậy, tựa vào vách
nói lảm nhảm như mọi kẻ say rượu trên đời vẫn thường nói lảm nhảm. Ngày hôm
sau, cả thị trấn Linh Giang ai ai cũng biết việc này.
*
* *
Có
một tiếng nổ dữ dội hất ngược Hoàng trở dậy. Bom! Mấy cột khói đen đang bốc lên
cùng với rác rưởi, sắt, đá phía bờ sông Linh.
Lúc này khoảng mười một giờ trưa.
Thế
là chiến tranh đã đến. Một cuộc chiến tranh không ai muốn, đã đến.
Trên
trời ầm ầm tiếng máy bay. Không nhìn thấy gì cả, chỉ nghe tiếng rít như xé vải.
Tiếng súng trường, đại liên, tiểu liên... rộ lên khắp thị trấn. Dân quân du
kích bám trên cái mái nhà, các ngọn cây thi nhau nổ súng. Hoàng chạy vụt ra
ngõ. Một đàn bò vài chục con đang cong đuôi chạy thục mạng ra bãi cát sau thị
trấn. Lần này Hoàng trông rõ bốn chiếc máy bay (sau này anh biết đó là loại
AD6) lừ lừ từ biển vào. Một nhóm dân quân cố đu lên mái nhà bác Cả Rí. Người nào
lên được, vội vàng giạng háng đứng bắn liên tiếp từng loạt một. Những người sau
ra sức đẩy đít nhau đu lên. Bác Cả Rí nhảy đại lên cột rơm, hai chân kẹp chặt
vào cột gỗ làm nồng cho cột rơm, mặt ngửa lên trời, mồm nhai trầu bỏm bẻm, tay
phải cầm dùi cui gõ nhịp ba vào cái mâm đồng đang cầm ở tay trái. Có một chiếc
AD6 hạ độ cao, sà thấp xuống rất nhanh về phía Ủy ban Nhân dân huyện. Một tốp
ba người, không rõ trẻ hay già, ra sức đuổi theo, vừa đuổi vừa bắn. Khi chiếc
AD6 bay vọt lên, đùm một đám khói đen thì khắp thị trấn ầm ầm tiếng la hét,
tiếng hoan hô, tiếng gõ vào các dụng cụ sắt nhôm... Người ta ngỡ máy bay cháy,
nhưng không phải, chiếc máy bay không việc gì sất, nó lật cánh hai ba lần như
cố tình chọc tức "các anh hùng chân đất". Đám dân quân đứng trên mái
nhà bác Cả Rí vừa bắn vừa chửi. Bắn cũng hung mà chửi cũng dữ. Riêng bác Cả Rí
thì vẫn hai chân kẹp chặt vào cột gỗ, miệng nhai trầu bỏm bẻm, cứ nhịp ba nện
dùi thẳng cánh vào cái mâm đồng làm cho nó cong lên như một cái bánh đa nướng.
Mấy quả bom Mỹ thả hụt, rơi phía bờ sông Linh làm hai đội cứu thương và cứu hỏa
chạy toát mồ hôi hột về phía đó. Chẳng việc gì cả, như chó ỉa đùn, chỉ mấy cái
hố nông choèn đùn lên sát mép bờ sông. Đội cứu thương ngụy trang đầy mình, nam
nữ đều đội mũ vải, bịt khẩu trang. Đội cứu hỏa mặt mày đỏ bừng, ai cũng đội mũ
sắt, chân đi ủng. Họ đứng lần chần một chút trước mấy cái hỗ nông choèn kia,
xác định chẳng có việc gì phải làm, kéo nhau về, bán tán râm ri.
Chiến
tranh diễn ra ở đây chưa đầy hai mươi phút và kết thúc khá vui vẻ: ta không
sao, địch cũng chẳng việc gì. Nhưng đấy chỉ là tấn hề tuồng nhẹ nhàng, giáo đầu
cho một vở kịch lớn lao sắp mở màn.
*
* *
Chiến tranh diễn ra chưa đầy hai mươi phút và
kết thúc khá vui vẻ: Ta không sao. địch cũng chẳng việc gì. Nhưng đấy là tấn hề
tuồng nhẹ nhàng, giáo đầu cho một vở kịch lớn lao sắp mở màn.
Hoàng
không hình dung nổi được điều này. Anh thấy vui hơn là lo lắng, sợ hãi. Ồ, cái
điều mà người đời thì thầm với các bộ mặt nghiêm trọng trong gần một năm nay
chỉ là hai mươi phút đầy tính hoạt kê này thôi ư? Nếu vậy thì chẳng có gì phải
bàn, chiến tranh cũng chỉ là trò chơi ú tim của thâm thù và cay cú, có vậy
thôi. Hoàng thấy khoan khoái, nhẹ nhõm và vui, một niềm vui gần như không lý do
cứ râm ran suốt buổi chiều hôm đó.
Đến
sẩm tối, Thùy Linh chạy đến nhà Hoàng. Cô xô cửa gài cổng lao vào nhà.
-
Ơ kìa, Thùy Linh!
Hoàng
kêu lên, đứng ngẩn ra một lát, rồi lao tới. Một tháng trời họ mới gặp nhau, kể
từ ngày Đại úy Thìn ra lệnh triệt tiêu các cuộc chơi lớn nhỏ của họ trên bờ
sông Linh. Hoàng đỡ hai vai Thùy Linh, rối rít:
-
Thùy Linh! Thùy Linh!
Thùy
Linh không ngẩng lên, cô buông mình vào ngực Hoàng òa khóc:
-
Anh ơi!
Thùy
Linh kêu lên hai tiếng đó nhẹ nhàng như không. Đây không phải tiếng gọi lần
đầu, cô đã gọi anh như thế giữa lòng sông Linh khi cả hai đều run lên, nóng
lạnh vì những cái hôn đầu. Sau đó, cả hai đều ngượng và cảm thấy hình như chưa
đến lúc gọi nhau như thế. Sẽ có một ngày, một ngày nào đó hãy còn xa lắm chứ không
phải lúc này...
-
Anh ơi!
Tiếng
gọi ấy đã bật lên khiến Hoàng đứng trơ ra, ngơ ngác không biết làm gì nói gì.
Thùy Linh đã gọi Hoàng như thế không phải khi mặt cô đỏ rực vì ngượng ngập và
bối rối, nó được bật ra từ một nỗi đau khổ thật lớn chưa kịp nói thành lời.
Hoàng dìu Thùy Linh về chiếc ghế đẩu cạnh đấy. Họ đi từng bước chậm chạp, nặng
nề. Thùy Linh ngồi xuống ghế, nín khóc. Hoàng hỏi đi hỏi lại cô tại sao lại như
thế nhưng cô không trả lời. Tay chống cằm, mắt đầm đìa nước mắt, Thùy Linh nấc
khẽ. Hoàng rót đầy một cốc nước sôi để nguội bưng đến đặt vào lòng bàn tay trái
buông hờ của Thùy Linh.
-
Em uống nước đi.
Hoàng
cố gắng sử dụng đại từ nhân xưng này thật thành thạo, cứ như không ấy, dù vẫn
thấy sống sượng thế nào, chưa "vào" được. Thùy Linh uống một hơi sạch
cốc. Vừa dứt, cô đã chìa cốc ra:
-
Cho em thêm cốc nữa!
Hoàng
đỡ lấy, nhanh chóng rót đầy cốc nữa cho cô. Lần này Thùy Linh uống từng ngụm,
vừa uống vừa ngẫm nghĩ rất lung về điều gì đó. Hoàng đứng lớ ngớ bên cô, không
biết nên làm gì lúc này là hợp lý nhất. Bụng nghĩ thầm: "Hay Đại úy bị
việc gì rồi. Có thể bên kia sông, nơi đơn vị ông đóng quân, địch đánh phá ác
liệt...". Anh chực hỏi điều này mấy lần nhưng không dám, sợ nhỡ không đúng
lại bị trách là "gở miệng", nên thôi.
-
Lúc có máy bay, em đi đâu? - Hoàng hỏi.
-
Em ở nhà. - Thùy Linh trả lời.
-
Thế... - Hoàng cố nghĩ thêm một câu hỏi nữa. - Thế em không xuống hầm à?
-
Không.
-
Thế... - Lần này bí quá, Hoàng hỏi liều. - Thế ba có việc gì không, em?
Thùy
Linh khẽ lắc đầu. Cô đưa cốc nước cho Hoàng, ra hiệu cất đi. Hoàng làm theo,
xong, lại lớ ngớ bên cô.
-
Thế... em có thấy máy bay... không?
Thùy
Linh từ từ ngước lên, mắt dại đi. Từ trong hố mắt xanh non của cô đôi hàng nước
mắt từ từ lăn.
-
Anh! Anh Hoàng ơi! Mẹ em trốn nhà đi rồi!
-
Sao? - Hoàng giật mình. - Cái gì? Trốn là sao?
Thùy
Linh đứng vụt dậy, hai tay túm lấy ngực áo Hoàng day day:
-
Trốn rồi! Trốn cùng với chú Tư! Anh ơi... trốn cùng với Họa sĩ Tư rồi!
Tiếng
cuối cùng Thùy Linh hét lên ghê rợn, cô rơi xuống thành ghế mềm nhũn. Không một
tiếng nấc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét