Những mảnh đời đen trắng- Chương 4, 5, 6

Tiểu thuyết


Chương bốn



Một mùa hạ nữa đang chảy qua tuổi trẻ của Hoàng.
Hoàng nhớ lần cuối cùng anh và Thùy Linh cùng nhúng mình xuống sông Linh, ngụp lặn tha hồ như những con cá chép trắng muốt, lấp lánh trong một buổi chiều đầu mùa hạ năm họ tròn mười bảy tuổi. Không ngờ sau đó mãi mãi họ không được cùng nhau vùng vẫy, nghịch ngợm cười vang mặt sông như thế này nữa.

Sông Linh dường như bao giờ cũng chờ đón họ, từ bao đời nay nó vẫn dịu dàng chờ đón với tất cả. Nó bắt nguồn từ phía bên kia dãy núi chín mươi chín ngọn. Nhìn từ thị trấn, dãy núi giống như một bức tranh hoành tráng miêu tả một cuộc khởi nghĩa nào đó. Nó, dòng sông, nhẹ nhàng men theo những làng mạc trù phú chảy về xuôi. Trước khi trôi về thị trấn, sông Linh ngoái lại thượng nguồn nhiều lần như nuối tiếc vì một nghĩa vụ chưa thành về nơi đã sinh ra nó, hoặc là thương nhớ và day dứt về những gì nó sống với thượng nguồn... Những vòng tròn mở rộng của dòng sông do "ngoái lại" nhiều lần đã tạo nên những ốc đảo đứng trầm ngâm giữa dòng sông. Gặp thị trấn, dòng sông bỗng vỡ ra, chảy tràn trề không thành dòng, dập dềnh mọi bãi bờ men thị trấn. Lần đầu tiên dòng sông biết đến một miền quê đông vui, nhộn nhịp, lấp lánh ánh điện và vang những âm thanh náo nhiệt mà suốt một trăm ki-lô-mét từ thượng nguồn nó không hề bắt gặp. Dòng sông không muốn chảy tiếp nữa, cứ dùng dằng quanh thị trấn cho đến lúc nó sực nhớ nó là dòng sông, đích của nó là biển cả, thế là nó vội vã trôi đi. Trước khi tạm biệt thị trấn, nó ngoái lại hai lần: Chào, chào... và lao như điên về biển cả. Bắt đầu từ thị trấn, sông Linh chảy xiết hơn, ầm ào, hùng hục... Hình như nó sợ nếu dừng lại, ngoái lại một lần nữa, dù chỉ trong giây lát, là nó không thể đi được, không cách gì rứt ra mà đi được...
Náng chiều rủ xuống thành từng đám vàng nhạt rải dọc bờ cát. Họ ngồi im lặng đăm đăm nhìn ra mặt sông đang chuyển màu tím sẫm. Có gì mà nói khi ngày nào hai người cũng gặp nhau. Chỉ có nhớ, một nỗi nhớ ngọt ngào cứ vương vấn mãi trong mỗi người ngay khi họ vừa chia tay. Thế là lại tìm cách gặp nhau, bất cứ lý do gì, có khi là những lý do rất buồn cười. Hoàng đã lớn, dù lớn sau Thùy Linh, nhưng đã lớn. Thùy Linh bỗng lạ lùng trước mắt anh vào một ngày học kỳ một lớp chín. Khi đó Thùy Linh từ rặng phi lao bước ra, đứng sững trước mắt Hoàng, hai má đỏ ửng. Ngực Hoàng bỗng rung lên.
- Đẹp quá.
Anh kêu khẽ và cảm thấy lúng túng không biết nên bắt đầu như thế nào. Hai người nhìn nhau rất lâu và bất chợt cười to cả hai, nắm tay nhau chạy tung tăng trên cát, dưới những rặng phi lao năm tuổi. Không biết đó có phải là ranh giới quy ước cho Hoàng thành người lớn hay không nhưng anh nhớ, không thật chắc chắn cho lắm, kể từ ngày đó Thùy Linh bắt đầu ám ảnh anh. Nhắm mắt lại: Thùy Linh, ngồi dậy: Thùy Linh, đi, đứng, chạy, nhảy, cười, nói vẫn Thùy Linh - Thùy Linh - Thùy Linh... không ai khác, Hoàng không biết anh đã yêu cô, chỉ biết nhớ khủng khiếp, ngay khi có Thùy Linh bên cạnh như lúc này thì anh vẫn nhớ. Thật lạ lùng...
Thùy Linh ngồi bên anh, hai tay trần bó gối. Cô ngồi im như một bức tượng thạch cao trắng muốt, bộ ngực nhỏ phập phồng. Lần đầu tiên cô xuống sông Linh với một bộ đồ tắm đủ che những gì cần thiết. Đám đàn bà con gái thị trấn này chưa ai mặc như vậy để tắm, kể cả những người đàn bà táo tợn nhất. Vậy mà Thùy Linh đã hiện ra như nàng tiên cá trong một bộ phim Hoàng đã nom thấy được. Chính Hoàng cũng sửng sốt khi Thùy Linh xuất hiện từ trong đám lá rưới - được làm nơi thay áo quần cho những người tắm sông - bước từng bước chậm rãi trong nắng chiều: trắng muốt và lấp lánh, trắng muốt và lấp lánh... Hoàng hoa mắt, vội vàng quay mặt đi. Nhưng chỉ được một thoáng, không cưỡng được, anh lại quay về phía Thùy Linh đang bước, vẫn trắng muốt và lấp lánh dưới nắng chiều. Bắt gặp ánh mắt của Hoàng, Thùy Linh bối rối một chút rồi lẹ làng buông tấm thân nõn nà xuống dòng sông, như một mảnh trăng non dập dềnh...
- Đố bắt được đấy!
Thùy Linh bơi cách bờ một quãng xa, lật nghiêng người ngoái về phía Hoàng, đưa tay vẫy vẫy. Hoàng đứng bật dậy nói to:
- Thật không?
- Thật!
- Rồi nhé!...
Hoàng lao xuống nước. Bằng lối bơi ếch nhuần nhuyễn, một phút sau anh đã đuổi kịp Thùy Linh, Hoàng cầm lấy chân trái Thùy Linh kéo lùi, cô kêu lên:
- Đừng có hòng nhé!
Thùy Linh úp mặt xuống nước, hai tay đập nước lia lịa.
- A ha! Bơi như chuồn chuồn đạp nước thế thì...
- Cứ đuổi kịp xem nào?
- Rồi nhé!...
Họ kêu vang mặt sông và quần đuổi nhau như những con cá chép mùa động dục. Hoàng dướn lên, vượt trước Thùy Linh, đột ngột quay gập ngược trở lại, dơ tay định ôm ghì lấy cô. Thùy Linh cười, vội vàng lặn xuống để tránh cái "úp nơm" của anh. Hoàng vồ hụt, mất đà chúi đầu vào ngực cô. Cả hai lặng đi một giây dưới đáy sông. Cái sự "chập mạch" tình cờ ấy đã làm cho Hoàng lẫn Thùy Linh rung lên ở một tần số khác thường. Họ rời nhau ra, lẳng lặng, không ai nhìn vào mắt ai, trống ngực đập thình thình.
Lát sau, Hoàng bơi nhẹ đến bên Thùy Linh, anh nói, giọng run run:
- Xin lỗi.
Thốt nhiên Thùy Linh úp mặt xuống dòng sông, hai vai trần rung rung. Ngực Hoàng nóng rực. Phải làm một việc gì đó, một việc gì không rõ là việc gì, nhanh nhanh nhanh... Bất thần Hoàng quàng tay siết chặt Thùy Linh vào lòng.
- Anh! Đừng anh!...
Anh! Trời ơi anh! Ngực Hoàng đập mạnh, rung rung:
- Em! Thùy Linh, em...
Cả hai đều run lên, cả hai đều nóng rực, cả hai tìm môi nhau, cả hai nín thở... Họ chìm dần xuống đáy sông... Chân họ bỗng chạm lớp cát mềm, cả hai buông ra, bơi vụt lên. Họ thở hổn hển, lại lao vào nhau và nóng rực và rung lên và chìm dần, chìm dần...
Bây giờ họ ngồi bên nhau trên bờ sông Linh nắng đã chuyển màu tím sẫm. Họ không dám nhìn vào mắt nhau, im lặng. Những ngọn sóng nhỏ vỗ nhẹ vào bờ, từng đợt, từng đợt, cố gắng vươn tới chỗ họ.
- Thùy Linh!
Một tiếng gọi giật giọng. Cả hai quay lại, Đại úy đứng sau lưng họ chừng mười mét, nhìn họ trừng trừng:
- Tôi hỏi: anh chị đã làm gì ở đây?
Đại úy hất hàm hỏi. Hai người đứng bật dậy, lúng túng nhìn Đại úy. Hoàng lúng búng:
- Thưa... chúng cháu tắm, như vẫn tắm...
- Chỉ có tắm thôi à? - Đại úy gầm gừ, lừ lừ nhìn hai người đang ở thế trần truồng (theo quan điểm của Đại úy).
- Vâng, tắm... - Thùy Linh trả lời.
- Tắm hay cởi truồng ra mà ngắm nhau, hả? - Đại úy cao giọng.
- Không đúng! Chúng cháu không ai cởi truồng cả! - Hoàng kêu lên.
- Im đi! - Đại úy nghiến răng, quát!
Ông chắp tay sau đít, đi lại quanh Thùy Linh, nói dõng dạc:
- Ai chả biết cô mặc đồ tắm... Nhưng tôi hỏi: tất cả nhân dân lao động ở thị trấn này có ai mặc xi-líp, xu-chiêng mà tắm không? Không ai cả. Đó  là một thực tế sinh động. Còn cô thì học thói rởm đời của quân tư sản mà mẹ cô là một dẫn chứng. Mẹ kiếp, trần như nhộng. Cha chà... thật là kinh khủng.
Hoàng định cãi lại nhưng anh nín được, mặt đỏ bừng nhìn Đại úy. Đại úy không thèm nhìn hai người, ông hạ giọng dứt điểm:
- Từ nay tôi cấm: một, không được tắm bất kỳ chỗ nào trừ nhà tắm. Hai, anh chị không được hẹn hò với nhau bất kì ở đâu, vào thời điểm nào. Tôi không tin vào sự trong sáng của anh chị nữa, mặc dù anh chị đều là con cái thuộc các thành phần cơ bản. Giải tán!
Đại úy hô lớn và bỏ đi. Được mươi bước, ông quay lại, khoát tay:
- Giải tán.
Bóng Đại úy khuất dần vào những bụi tầm ma mọc dày đặc trên bờ đê. Hoàng lắc đầu, lầu bầu:
- Thật kinh khủng.
- Về thôi anh. - Thùy Linh nhắc.
Họ về mệt mỏi lết từng bước. Đến chỗ rẽ lối vào nhà Thùy Linh, hai người đứng lại. Thùy Linh bất ngờ sà vào lòng Hoàng, hôn điên cuồng lên ngực, lên trán, lên cổ anh. Cô đau đớn kêu lên:
- Em yêu anh! Anh Hoàng! Em yêu anh... anh... ngày mai, ngày mai anh đừng như ba em. Đừng nhé, đừng như ba em...
Thùy Linh khóc, mềm nhũn trong tay Hoàng. Hoàng không hôn cô, không hôn một chiếc nào lên gương mặt đầm đìa nước mắt của Thùy Linh. Anh khẽ nói:
- Chúng ta còn bé quá...
Thùy Linh bất ngờ đẩy Hoàng ra, thét lớn:
- Nhưng chúng ta có quyền sống! Chúng ta có quyền!...
Cô chạy ào về nhà, vừa chạy vừa khóc. Hoàng đuổi theo, không kịp, cô đã lọt vào chiếc cổng sắt nhà Đại úy.

                                          *
                                     *         *


Mưa ròng rã hai ngày rưỡi, hai ngày rưỡi Hoàng không gặp được Thùy Linh. Anh nóng ruột phát điên lên.
Hãy còn vài đám mưa bay phơ phất, đôi khi chợt òa xuống chốc lát, lại phơ phất. Trời vẫn đen kịt nhưng Hoàng không thể chờ cho dứt hẳn trận mưa kỳ quặc này nữa, anh quyết định khoác áo mưa ra đi.
Muốn đến nhà Thùy Linh phải vượt qua một cánh đồng rộng chừng năm chục héc ta. Nói là thị trấn nhưng ở đây chất nông thôn vẫn trội hơn thành thị. Hai phần ba số dân thị trấn là dân cày bẫm, cuốc sâu. Số dân còn lại sống nhờ vào cái chợ và làm một vài mặt hàng lặt vặt hoặc sửa chữa xe đạp, may vá v.v... Lúc Hoàng và Thùy Linh vào khoảng mười ba, mười bốn tuổi, họ đã nghe Đại úy Thìn nhắc đi nhắc lại rằng thị trấn rất khó có khả năng tồn tại đến thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Bởi vì, theo như Đại úy nhắc đi nhắc lại, thị trấn chỉ rặt giai cấp nông dân (chỉ những người làm ruộng) và tầng lớp tiểu tư sản (chỉ những người sửa chữa xe đạp, may vá và buôn bán nhỏ). Còn giai cấp công nhân (chỉ những người sản xuất hàng tiêu dùng) ít đến mức coi như không có. Rõ ràng thị trấn không có giai cấp lãnh đạo làm tiên phong cho mọi phong trào cách mạng, nên thị trấn khó có thể xây dựng Chủ nghĩa Xã hội cho ra hồn. Điều đó có thể hiểu tương đương với việc thị trấn có thể bị xóa tên khi chúng ta vượt qua thời kỳ "quá độ". Thêm vào đó, trường cấp ba của huyện, nơi Hoàng và Thùy Linh đang theo học, lại đóng ngay trong thị trấn, tức là tầng lớp trí thức tiểu tư sản sẽ ra đời. Tầng lớp này rất nguy hiểm vì tính chất dễ sa ngã của họ. Họ có thể phản thùng bóp cổ Chủ nghĩa Xã hội như chơi, trong khi lực lượng chuyên chính vô sản sau ngày hòa bình lập lại có vẻ bị thu nhỏ lại và rất chủ quan!...
Hoàng và Thùy Linh nghe Đại úy giảng giải khá kỹ lưỡng về vấn đề này, họ chẳng hiểu gì cả nhưng vì nghe quá nhiều nên ai cũng thuộc. Mãi sau này Đại úy nghe Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh bảo đấy là sự nhầm lẫn đáng tiếc của Đại úy trong việc qui ước các "giai cấp" và "tầng lớp" của một vạn rưỡi dân Thị trấn và có phần vội vàng khi kết luận con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội của thị trấn khá ảm đạm, Đại úy ngẫm lại, khẳng định là mình sai. Đại úy đã thành thật "báo cáo" lại với Hoàng và Thùy Linh. Tất nhiên họ chẳng quan tâm gì lắm về chuyện đó. Họ thích thú đem những ý kiến mà Đại úy đã nhận là sai lầm đi dọa lũ trẻ nhỏ tuổi hơn, làm cho chúng xanh mặt, không biết sau này mình sẽ ở đâu. Đứa nào có bố mẹ thuộc tầng lớp tiểu tư sản thì mặt cắt không ra máu. Ngày đêm chúng mơ ước một ngày nào đó, trời xui đất khiến thế nào, thị trấn bỗng nhiên xuất hiện rầm rộ "giai cấp lãnh đạo" để cho nó mãi mãi sầm uất, giàu có như nó vẫn tồn tại, hoặc hơn. Lũ trẻ luôn tin tưởng tất cả những gì Đại úy nói là những chân lý không thể bác bỏ, bởi vì ông là sĩ quan có quân hàm cao nhất, được dự nhiều nhất các lớp chỉnh huấn quan trọng cấp tỉnh, và trên thực tế, ông là người duy nhất bóp cổ được tên quan hai Pháp trong một trận huyết chiến ở phía tây thị trấn. Đó cũng là lý do vì sao ngôi nhà của Thùy Linh được cất lên nơi ao tù nước đọng, dày đặc muỗi và phân trâu, nồng nặc mùi xú uế ở phía tây thị trấn. Vào lúc mưa gió, trời tối đen như thế này, tìm đến nhà Thùy Linh quả không gì khổ hơn.
 Hoàng cẩn thận vừa nhìn vừa ngửi vừa nhắm vào những vật chuẩn ẩn hiện mơ hồ trong đêm, dấn từng bước...
- Thùy Linh ơi!
Hoàng nhóng cổ qua hàng rào dâm bụt nhà Thùy Linh, gọi. Anh đã gọi như thế này có tới hàng ngàn lần từ thủa "hỉ chưa sạch mũi" đến giờ. Chỉ cần dứt tiếng gọi là Thùy Linh chạy ra. Cô luôn ở thế chờ đợi anh. Họ sẽ nắm tay nhau ngúc ngắc tiến ra bờ sông Linh chơi đùa đến chán thì thôi. Hoàng đã gọi, gọi, gọi... bây giờ anh bỗng thấy hồi hộp mỗi khi cất tiếng. Hoàng dựa vào hàng râm bụt trước cổng nhà Thùy Linh, tim đập rộn ràng...
- Thùy Linh ơi!
Mưa tạt vào ướt hẳn một mảng áo của Hoàng. Anh gọi và nhận thấy tim mình đập nhanh hơn.
- Thùy Linh!
Hoàng nom thấy Thùy Linh đi nhanh xuống bếp, anh gọi nhưng cô không đứng lại. Không phải, cô dừng lại chút xíu rồi cúi mắt đi. Có chuyện gì thế? Có thể trong nhà vừa xảy ra một chuyện gì đó, ví dụ như vừa có một cuộc đấu khẩu giữa Đại úy Thìn và Họa sĩ Tư. Việc này xảy ra thường xuyên, cứ mỗi tuần một lần, nó giống như bệnh viêm họng mãn tính, thỉnh thoảng lại rống lên, rồi im rồi ôn hòa. Nếu vậy thì Thùy Linh sẽ chạy ra thôi, bởi các cuộc cãi cọ đó không liên quan gì đến cô cả. Hoàng đứng lần chần trước hàng rào dâm bụt, suy đoán lung tung, đoán luôn cả việc bộ ngực vô tâm của Thùy Linh đã phát triển quá sớm khiến Đại úy Thìn phải ra tay bảo vệ, làm cho mối quan hệ cuối cùng của Thùy Linh với con trai, là Hoàng, cũng bị chấm dứt. Bực mình, Hoàng đu đẩy hàng rào dâm bụt rung lên bần bật, đạp vào đám dây nhợ néo buộc lằng nhằng ở cổng một cái cực mạnh rồi quay gót.
- Hoàng!
Thùy Linh chạy vụt từ nhà ra, đứng ép vào hàng rào dâm bụt, gọi. Hoàng quay lui, cố làm ra vẻ uể oải, tiến lại gần.
Họ nhìn nhau qua hàng dâm bụt.
Thùy Linh thì thầm:
- Anh...
Hoàng dấu nụ cười sung sướng vào những chiếc lá dâm bụt đẫm nước mưa. Anh thò tay qua hàng rào, đặt nhẹ lên bờ vai tròn lẳn của Thùy Linh. Thùy Linh thở mạnh, cô vội vàng gỡ tay Hoàng. Hoàng không chịu, thò luôn tay kia kéo Thùy Linh ép sát hàng rào. Một cái hôn ướt đẫm nước mưa đặt lên má Thùy Linh...
- Đừng... anh, buông ra... ôi chết...
Vẫn có hàng dâm bụt ngăn cách. Hoàng rướn người qua hàng rào, điên cuồng đặt môi mình lên bất cứ nơi nào trên cơ thể Thùy Linh. Những chiếc hôn ướt đẫm nước mưa rồi xuống tới tấp. Hàng rào dâm bụt rung lên bần bật...
Thùy Linh rứt Hoàng ra, hổn hển:
- Anh về đi, về ngay đi. Sáng mai Thùy Linh đến.
- Có chuyện gì thế?
Hoàng hỏi, cố gắng quan sát vẻ mặt của Thùy Linh nhưng không thấy gì cả, tối quá. Thùy Linh úp mặt vào đám lá cây dâm bụt, nói như khóc:
- Bố mẹ Thùy Linh... cãi nhau.
- Thế à? Có chú Tư à?
- Khô-ông... anh về đi. Về đi, nhé!
Thùy Linh chạy vào nhà, được một đoạn cô quay ngoắt lại ra hiệu cho Hoàng "lui binh". Hoàng đứng ngớ ra một lát rồi tắc lưỡi về.
Mưa đã ngớt. Chỉ còn những đám mưa rây bột bay phơ phất. Thốt nhiên Hoàng thấy lạnh, lạnh và buồn. Có thể đây là dấu hiệu đầu tiên báo cho Hoàng biết từ nay anh đừng có hòng chơi với Thùy Linh được nữa. Từ nay họ bắt đầu phải lén lút, lén lút như bao nhiêu mối tình ở thị trấn đã lén lút. Người ta có thể đứng đái thản nhiên giữa đường vẫn không việc gì còn như nắm tay, khoác tay nhau, hôn nhau thì thật chướng tai gai mắt, dư luận xã hội phản đối ầm ầm. Hoàng khẽ thở dài. Vì sao thế nhỉ? Không hiểu vì sao. Cũng có thể Thùy Linh nói thật, bố mẹ cô đang cãi nhau, một cuộc cãi cọ dữ dội nên Thùy Linh không muốn Hoàng chứng kiến. Không phải như vậy! Cô và Hoàng đã chứng kiến hàng chục lần cãi cọ của họ, từ ngày Họa sĩ Tư xuất hiện ở thị trấn, nhàm tai đến mức trong khi họ suýt chồm vào nhau, phun vào nhau những lời độc địa thì Hoàng và Thùy Linh vẫn có thể chơi đùa thoải mái dưới bếp mà không có vấn đề gì xảy ra cả. Không phải như vậy, đúng rồi, không phải như vậy! Hẳn là có một bí mật nào đã ngăn trở Hoàng không được bước qua cổng nhà Thùy Linh. Ý nghĩ ấy vụt đến làm Hoàng đứng khựng lại, quyết định dứt khoát phải khám phá cho ra bí mật kia. Tuổi thơ đã hết nhưng quán tính của nó thì vẫn còn, đó là lý do đẩy Hoàng vòng dọc theo hàng cây xoan, nhảy đại qua mấy cột thép gai mắt cáo, rón rén đi về phía bếp...
Cạch! Cạch!
Tim Hoàng thắt lại khi nghe tiếng kẹt cửa. Anh nằm ép sát xuống đám lá khoai trồng cạnh bếp. Đại úy Thìn mở cửa đi ra, đứng dựa vào vách liếp, vén quần đái. Hoàng thấy lạnh run lên vì sợ. Nếu Đại úy Thìn tóm cổ được Hoàng lúc này, lập tức ông sẽ qui cho anh thuộc tầng lớp đối kháng với chủ nghĩa xã hội, tức là thằng ăn cắp. May thay, Đại úy không thấy gì cả, Hoàng chỉ phải chịu đựng vòi nước nóng của ông rót thẳng vào người anh. Càng hay, anh đang ướt như chuột, đang rét run lên...
Cạch! Cạch!
Đại úy Thìn khuất bóng sau cánh cửa. Hú vía! Hoàng nhổm dậy, mon men về phía cửa sổ khép hờ ở nhà chính. Trong nhà không ai lên tiếng, im lặng như một nấm mồ. Hoàng ghé mắt qua cửa sổ, liên láo ngó quanh.
Thùy Linh nằm sấp trên chiếc ghế dài bắc ngang ngạch cửa, hai tay buông thõng, tóc xõa sát đất, mông và ngực phập phồng, hình như đang tấm tức khóc. Đại úy Thìn ngồi vắt chân chữ ngũ, thong thả nhả từng cuộn khói thuốc về phía cửa sổ, chỗ Hoàng đang nhìn. Không thấy mẹ Thùy Linh đâu. "Có lẽ thím ấy đang ngủ" - Hoàng tiến thêm vài bước, đến sát cửa sổ bên kia, hy vọng có thể nhìn thấy mặt Thùy Linh. "Không biết Thùy Linh có khóc thật không?". Cửa sổ này cao hơn tầm mắt buộc Hoàng phải nhón chân. Lúc đầu cũng chỉ thấy mông và ngực Thùy Linh phập phồng và Đại úy Thìn đã đổi thế chân thong thả nhổ râu, nhưng vài chục giây sau Hoàng kinh hoàng nhìn thấy một tấm thân trần truồng bị trói chặt vào cột nhà, đầu tóc rũ xuống. Trống ngực Hoàng đập dữ dội, anh run bắn người, dí sát mặt vào cửa sổ.
Người bị trói vào cột nhà chính là thím Hoa. Lần đầu tiên Hoàng thấy một người đàn bà trần truồng, một khối thịt trắng muốt đang chảy xuống im lìm như xác chết vừa dựng dậy. Hoàng rùng mình, mồ hôi thấm ướt áo. Anh hoàn toàn bị thôi miên khi bắt gặp tấm thân ấy, không đứt ra được, mặc dù anh đang run lên vì kinh hồn sảng vía chứ không phải vì thích thú.
Thím Hoa bị trói cứng ngắc vào cột nhà đã rất lâu, đến giờ thím kiệt sức, thoi thóp thở. Đại úy Thìn vẫn thong thả nhổ râu, lúc lúc lại liếc sang thím, nhếch mép cười. Thùy Linh chợt uể oải ngồi dậy, đờ đẫn nhìn hai người, mặt mày trắng bạch. Cô mệt mỏi tiến về phía thím Hoa, run run sờ vào những chỗ có dây néo buộc trên cơ thể thím.
- Rụt tay ra!
Đại úy Thìn quát bằng giọng ồm ồm, chậm rãi. Thùy Linh rụt vội tay, quay ngoắt về phía Đại úy. Cô chạy tới, quỳ xuống chân ông, ngước mặt nói lắp bắp:
- Ba tha cho mẹ con. Con lạy ba, ba ơi!
Thím Hoa bất thần ngẩng đầu lên, mắt đỏ rực:
- Đừng làm thế Thùy Linh, hèn!...
Đại úy ngửa cổ cười, giọng cười như khóc. Bỗng nhiên thím Hoa lắc lư, lắc lư và đổ xuống nền nhà. Hoàng há mồm, trợn mắt: thật là kinh khủng! Thật là kinh khủng! - Phía sau lưng thím là một người nữa, cũng trần truồng, bị cột dính lưng thím. Thì ra không phải là "cột nhà" mà là một người đàn ông, thoáng nhìn đã biết chắc là Họa sĩ Tư, vì khuất bóng nên lúc đầu Hoàng không nhận ra. Hai người cựa quậy dưới chân Đại úy. Thùy Linh rú lên, nhào tới nức nở khóc:
- Buông ra! Buông mẹ tôi ra!
Và cô vừa khóc vừa cắn vào sợi dây thừng, day day. Đại úy Thìn ngửa cổ cười lớn, lần này ông cười dài hơn, vẫn giọng cười như khóc. Có lẽ Đại úy đang nức nở khóc chứ không phải cười, cười gì mà thê thảm thế.
                                         
                                                   *
                                                     *       *


Lần đầu tiên Đại úy tự hủy bỏ lịch trình làm việc từ chiều thứ Bảy đến tối Chủ nhật của mình. Ông nằm bất động trên giường suốt buổi sáng Chủ nhật.
Đại úy không thể tin được đêm hôm qua (cái đêm ghê rợn mà Hoàng đã chứng kiến) vợ ông đã lăn lộn trên chính giường ngủ do chính đồng lương đại úy của ông tạo ra với Họa sĩ Tư, em cùng cha khác mẹ của ông. "Thật không có một lý luận nào, một khoa học nào có thể giải thích nổi" - Đại úy ngẫm nghĩ: "Giá như ngày xưa, dưới chế độ cũ, người ta chẳng có lý tưởng mả mẹ nào để mà theo đuổi, thì cái việc loạn luân hẳn cũng chỉ là trò tiêu dao ngày tháng. Đằng này, người ta được tắm trong bầu không khí trong sạch như thế, lại được lý tưởng tốt đẹp dưới chế độ mới sáng choang là vậy rọi sáng khắp nơi, thế mà chúng nó cứ lăn xả vào nhau như những con lợn ngu xuẩn. Chúng nó dường như chỉ biết ăn và đ. Đồ khốn nạn!" Đại úy ngẫm nghĩ rất lâu, "viết" ra trong đầu cả một bài dài, câu kéo chỉnh chu về sự sa đọa của vợ ông... Đấy cũng chính là điều nhục nhã nhất đời ông, kể từ ngày Đại úy vác đại đao đi "trừ gian diệt ác". Thế là "phương án số 2", cái phương án khốn kiếp mà Đại úy đã dự trù và cảm thấy sợ, một nỗi run sợ âm thầm len lỏi trong ngực ông, bây giờ đã xảy ra. Nó xảy ra sớm hơn thời gian ông trù liệu và khốn nạn hơn cả những gì ông tưởng tượng.
Khi Đại úy nhảy vào buồng thì thím Hoa vào Họa sĩ Tư vừa chấm dứt tức thì cuộc giao hoan của họ. Vẫn còn nguyên hiện trường, kể cả thân xác lõa lồ "như những còn lợn ngu xuẩn" của họ.
- Ái!- Đại úy rú lên.
Thím Hoa lập tức lùi sâu vào góc buồng, co ro như con vượn bị nhúng nước. Họa sĩ trợn mắt, há mồm, sợ đến mức toàn thân co cứng, tái nhợt.
- Đồ chó chết, đồ khốn nạn! Đồ chó chết!...
Đại úy lao vào hai người, đấm đá túi bụi. Hai người bị những cú đấm trời giáng của Đại úy văng ra mỗi người một góc. Một cái răng của Họa sĩ văng ra, máu mồm chảy ồng ộc. Không ai dám chống cự, cũng không ai kêu lên một tiếng nào. Đại úy đấm vào hai người như đấm vào các xác chết...
Đại úy hầm hầm rút dây thừng, kéo sát hai người lại, ép dính lưng nhau, trói chặt. Vừa trói ông vừa chửi rủa, nước bọt văng tung tóe. Xong, ông để mặc hai người trần như nhộng đứng như trời trồng giữa nhà, tìm nước uống. Ông uống một cốc nước to, dứt mạch, ông dằn mạnh cốc xuống bàn thở hồng hộc. Bây giờ Đại úy mới thấm mệt, ông thở dồn dập, mồ hôi chảy ướt dầm dề ngực áo.
Lúc này, cho đến tận lúc này, thím Hoa mới nhớ những gì đã xảy ra vừa qua đối với thím. Hình như thím đã gọi Họa sĩ vào, họ ngồi bên nhau vừa nói vừa hát khua chân múa tay như những con vượn bị tách khỏi bầy lâu ngày mới gặp nhau. Hình như không phải như thế. Hình như thím đã lăn xả vào Họa sĩ Tư trong một nỗi đau đớn tuyệt vọng hoặc nỗi thèm khát dục vọng bốc cháy đến độ toàn thân thím co giật. Hình như không phải như thế. Hình như họ chẳng có tội gì cả. Họ không làm gì nên tội, họ vẫn là "chị em", dù dối trá nhưng vẫn là "chị em" và chưa có hành vi nào vượt ra ngoài khung qui ước ấy...
Khi cú đấm cuối cùng của Đại úy dáng vào mặt thím làm cho thím có cảm giác mình không còn là mình nữa, đã vỡ ra trăm vạn mảnh, thì thím lơ mơ nhớ lại. Tất cả đều lơ mơ, tất cả đều vỡ ra, quay tít mù trong thím...
- Chúng mày không phải là người! Đồ lợn!
Đại úy chửi vào mặt hai người và nghiến răng cuộn từng vòng dây thừng quàng qua hai người, siết chặt. Họa sĩ Tư bị những cú đấm trời giáng của Đại úy, đã rữa ra như xác mắm, chết lịm trong dây trói. Chỉ còn thím Hoa bỗng dưng tỉnh lại, thím nghe rõ, nghe đủ hết những gì Đại úy phun vào mặt hai người. Thím thấy rét, rét run lên, thấm vào tận máu. Các vết thương do những cú đấm Đại úy gây ra trên thân xác thím bắt đầu co giật, tạo ra những luồng điện li ti chạy rần rần khắp nơi. Thím nhìn xuống, mang máng nhớ hình như mình đã trần truồng như thế này từ lâu rồi, quá lâu rồi, từ năm kỉa năm kia hoặc lâu hơn, có khi từ thủa lọt lòng đến giờ cũng nên chứ không phải vừa mới xảy ra chưa đầy một tiếng đồng hồ...
Đại úy lừ lừ đi lại, trừng trừng nhìn hai người, gầm gừ:
- Lý tưởng của các người thật kinh tởm! Quá kinh tởm! Ăn và đ., chấm hết! Đồ khốn kiếp.
Đầu tiên tai thím ù lên, chẳng nghe gì cả, nhưng sau đó, vì Đại úy gầm gừ quá nhiều lần nên thím nghe đủ hết và hiểu Đại úy đang nói gì. "Không phải thế đâu, đồ đần độn!", thím định hét lên như thế nhưng ghìm lại được. Vừa ghìm lại được tiếng hét ấy thì người thím bỗng nóng rực lên. Và buồn cười. Ối chao ôi, thím buồn cười quá. Nhìn mặt Đại úy đang đỏ nhừ, nham nhở những nốt sần trông chẳng khác mấy miếng cơm cháy, thím chực cười trào. Thím ngẩng lên nhìn xoáy vào mắt Đại úy với vẻ kiêu hãnh hiếm thấy. Đại úy bối rối, cố gắng tránh ánh mắt của thím nhưng không được, bèn chống trả lại bằng cái nhìn giễu cợt, thỉnh thoảng nhếch mép cười, giọng cười như khóc. Ông ngồi xuống ghế, thong thả nhổ râu, thỉnh thoảng lại liếc sang thím Hoa. Ấy là lúc Hoàng đang đứng phía sau cửa sổ nhìn trộm vào. Hoàng không biết cái vẻ ung dung pha một chút đắc thắng của Đại úy hoàn toàn do ông cố tạo ra để giấu giếm nỗi sợ hãi của ông bỗng chốc lại dâng lên, quay cuồng. Đại úy đang run sợ, đó là một sự thật. Ông mơ hồ nhận thấy mình hoặc thất lý hoặc độc ác đối với cặp người đang ở trong những cuộn dây thừng kia. Đáng lẽ phải chạy đến hối hả mở trói cho hai người, vừa mở vừa lắp bắp nói những lời ân hận, hoặc cứ nói quanh co, nói lúng búng không ra câu gì cũng được, đặng cứu vãn những cú đấm trời giáng, những câu chửi bẩn thỉu và hành động cuối cùng ông đã làm: trói trần truồng cả hai người trước mặt đứa con gái, thì ông lại ngồi thong thả nhổ râu với vẻ đắc thắng bẩn thỉu. Từ thuở vác đại đao tạm biệt quê nhà ra đi, vượt qua một trăm hai mươi sáu trận đánh long trời lở đất với giặc Pháp, bao giờ ông cũng cố giành và rốt cuộc giành được phần thắng, ngay cả những hoàn cảnh cam go nhất. Vậy là ông ngồi rung đùi, thong thả nhổ râu, tới khi đứa con gái ông hét vang lên: "Buông ra! Buông mẹ tôi ra!" thì tim ông đập hoảng loạn. Ông ngửa cổ cười, lần này cười dài hơn, vẫn giọng cười như khóc đã làm Hoàng rụng rời chân tay, nghĩ là Đại úy đang nức nở khóc thì đúng hơn, cười gì mà thê thảm thế! Vòng dây trói đã được Thùy Linh tháo tung. Đại úy không nói gì, chỉ ngửa cổ cười.
Một giờ sau tất cả như không có gì xảy ra. Họa sĩ Tư mặc xong áo quần, nhổ một bãi nước bọt lẫn máu mồm trước mặt Đại úy, quay gót. Thím Hoa vào buồng nằm dài. Quá nửa đêm... gà gáy... Đại úy vẫn ngồi nhổ râu, mồ hôi chảy đầm đìa. Ông đã nhận ra, mỗi lúc mỗi sâu sắc thêm, tính chất sai lầm về những ứng xử của mình đối với vợ ông và Họa sĩ Tư. Nếu chỉ riêng Họa sĩ không thôi, Đại úy sẽ chẳng ân hận gì sất. Đã từ lâu ông vẫn coi Họa sĩ như một đối tượng của chuyên chính vô sản. Chưa bao giờ ông nhận Họa sĩ là em mình, "nó ở bên kia giới tuyến" - nhiều lần ông công bố thế với mọi người. Đến lúc này ông vẫn giữ nguyên lập trường, không một xê dịch nhỏ. Nhưng với thím Hoa thì khác. Đó là vợ ông. Trước khi thành vợ ông là người yêu của ông. Trước đó nữa là người đẹp mà ông ngưỡng mộ. Vậy mà ông đã xử sự với thím còn tệ hơn xử sự một tên tù binh Pháp. Đây là phép so sánh mà Đại úy đã nghĩ tới. Càng nghĩ tới càng đau lòng.
Đại úy nghĩ:
- Mình không xứng đáng là một người Cộng sản. Người Cộng sản không những biết kiên quyết đấu tranh mà phải biết bao dung độ lượng.
Đại úy lại nghĩ:
- Biết nhận ra sai lầm và khắc phục sai lầm là bản chất của người Đảng viên.
Đại úy nhìn vói ra cửa sổ, cố tìm ở đâu đó một tia sáng trong cái khối đen đặc đang tràn trề khắp nơi. Ông thấy quá mệt mỏi, chán nản.
Gà gáy, lại gà gáy. Trời đã mờ mờ sáng.
Đại úy chợt nghe trong buồng thím Hoa đang trở mình. "Hình như cô ấy vẫn không ngủ" - Ông nghĩ thầm và rón rén đi vào. Ông đi như dò mìn, chỉ khác khi dò mìn ông không run còn bây giờ thì trống ngực ông đập thình thịch. Ông ngồi xuống giường. Thím Hoa đang nằm bất động, hai tay duỗi thẳng, tóc xõa ra.
Ông nín thở đặt nhẹ tay lên lưng thím.
"Rất có thể cô ấy sẽ chồm dậy và chửi vào mặt mình".
Ông xoa lướt trên tấm lưng mềm của thím, từ từ... Từ từ...
- "Phải làm lành, dù cô ấy có chống cự hoặc chửi bới"
Ông ấn tay nặng hơn lên lưng thím, từ từ, rất từ từ đưa lên bả vai, xoa xoa và bóp nhẹ vào bờ vai, rồi dần dần đưa tay trở ngược lại phía lưng, phía dưới lưng và để nguyên bàn tay thô tháp của mình ở chỗ đó. Đại úy cảm thấy nghẹt thở, ông hồi hộp chờ đợi phản ứng của thím Hoa.
- "Nếu cô ấy chồm dậy? Lúc ấy mình sẽ làm gì? - Sẽ im lặng và ôm ghì lấy".
Đại úy từ từ, rất từ từ nằm xuống, nhẹ nhàng kéo thím Hoa sát vào lòng, cố lắng nghe nhịp thở của thím.
- "Cô ấy chưa ngủ đâu. Cô ấy biết đấy!..."
Vẫn không có một phản ứng nhỏ nào của thím. Đại úy thấy yên tâm, tuy vậy ông hãy còn sờ sợ. Ông đặt tay lên cổ thím để thăm dò, tính toán mãi không biết đã đến lúc thò tay xuống ngực được chưa. Mười phút sau, cầm chắc là thím Hoa đang thức, đang dịu dàng trong lòng tay ông như mọi bận vẫn dịu dàng, Đại úy thấy vui hẳn, thoải mái hẳn rồi hăng hái hẳn...
- "Thì ra cô ấy vẫn yêu mình. Không yêu mà im lặng thế sao?".
Đại úy đặt cái hôn đầu tiên lên trán thím, lắng lại để thăm dò.
- "Vẫn im lặng!"
Đại úy thấy thích quá, vui quá và hôn hôn hôn... cho đến lúc ông chuẩn bị nhập vào trong một niềm hứng thú của một đứa trẻ vừa được tha thứ lỗi lầm thì thím bỗng bật cong người, toàn thân co rúm. Một tiếng cười ré lên khiến Đại úy giật mình hoảng hốt. Thím Hoa nằm rúm ró trong buồng tối, cười nghiêng ngả như người mắc chứng tâm thần. Tiếng cười cao vói, chua lòm triền miên tưởng không bao giờ dứt. Không nói gì hết, không phản ứng gì hết, chỉ cười.
- "Thật là kinh khủng!"
Đại úy ngồi dậy, không biết làm gì, nói gì.
- "Thật là kinh khủng!"
Đại úy chạy ra ngoài sân. Vẫn tiếng cười cao vói, chua lòm của thím đập vào gáy ông nóng rực. Đại úy đi lại luẩn quẩn trong sân rồi tiến thẳng ra ngõ lúc nào ông cũng không nhớ nữa. Ông đi loạng choạng, bước vô định trong ánh sáng lờ mờ của buổi rạng sáng. Tiếng cười bay vút lên, "hé hé he he he..." vượt trước Đại úy, vòng trở lại đập dữ dội vào ngực ông. Ông ù tai, và hoa mắt, ông chẳng thấy gì cả. Đi và đi và đi và chạy. Ông ù té chạy.
- Hé hé hé he he he!...
Đại úy chạy mù mịt giữa đám cây rưới trước mặt sông Linh. Chưa bao giờ ông bỏ chạy trong một trạng thái hoảng sợ đến cực điểm như thế này. Ông cứ chạy rối mù trong đám cây rưới. Bác Cả Rí xách chùm lươn đứng ở phía sau bờ đất cao nhóng cổ hỏi:
- Ấy, bác Thìn đi đâu sớm thế?
Đại úy đứng sững. "Đi đâu nhỉ?", ông không biết ai vừa hỏi mình hay chính nỗi sợ hãi của ông đang lên tiếng.
- Gớm, bác Thìn làm gì mà đứng đực ra thế? Bác không thấy em à? - Bác Cả Rí tiến đến, nói to.
- À, bác Cả Rí! - Đại úy thở phào, ngoái đầu lại. Đại úy nheo mắt nhìn bác Cả Rí, cố nhớ một điều gì đó, điều gì hình như ông vừa quên. Cái bóng bác Cả Rí bỗng nhỏ lại, quay tít mù trước mắt ông. Đại úy quờ một nhành cây rưới để tựa vào đấy, quờ mãi không thấy đâu.
- Ối! Bác Thìn làm sao thế?
Bác Cả Rí vứt xâu lươn chạy đến, cỗ đỡ lấy thân hình hộ pháp của Đại úy sắp đổ xuống.
- À, không...
Đại úy tỉnh giấc, mệt mỏi nhìn bác Cả Rí đang mắm môi mắm lợi chống cả hai tay vào lưng ông.
- Tôi có việc gì đâu... Mệt quá, định ra sông thở hít một chút cho khỏe người.
Đại úy nói, giọng tươi tỉnh trở lại. Không chào bác Cả Rí nửa câu, ông vội vã quay về.
- "Quái lạ, tại sao mình lại chạy ra đây?"
Đại úy không nghĩ ra, không cách gì nghĩ ra, mồ hôi trán chảy đầm đìa...
Ngôi nhà Đại úy đã yên tĩnh trở lại. Đại úy bước vào buồng. Hai mẹ con thím Hoa đang ôm nhau ngủ ngon lành như không hề xảy ra việc gì từ tối hôm qua đến giờ. Đại úy ngã lăn vào giường đặt trong bếp. Ông nằm lịm đi cho tới trưa, quá trưa xế chiều vẫn không dậy được. Đại úy đốt thuốc liên tục, hết điếu này đến điếu khác, càng hút càng thấy thèm. Ngay khi đang hút dở điếu này ông đã tính cần phải châm ngay điếu khác. Thèm quá đi mất, thèm thuốc chết đi được. Gớm, sao mà thèm lạ lùng cái thứ thuốc Tam Đảo ngày nào ông cũng hút đến thế.

                                          *
                                          *         *


Đến lượt Hoàng đã nhận ra cái mà người ta gọi là tình yêu thật khủng khiếp. Mấy ngày sau cái đêm ghê rợn ấy Hoàng vẫn còn thấy lạnh xương sống. Trong khi đó dân thị trấn có vẻ hoan hỉ hẳn lên. Thì cũng phải có một chuyện để mà bàn, lật ngược lật xuôi "các vấn đề", thì thào thì thào... và ôm bụng cười ha hả, nếu không thì buồn chết đi được. Gạo vẫn một đồng mười hai lon, thịt vẫn hai đồng một ký, tôm to vẫn ba đồng một rổ... bất di bất dịch. Tình hình "trật tự  an ninh và an toàn xã hội" ngoài mấy mụ ăn trộm vặt đều chẳng có gì đáng kể, các đồn đại về việc Mỹ sẽ đem máy bay ra bắn phá miền Bắc nói mãi rồi cũng chán. Thế là vớ được chuyện này...
- Ối trời đất ơi, hủ hóa!
Bác Cả Rí xách một xâu lươn từ chân đê đi xộc vào quán thịt chó Cule, kêu ầm lên. Cule đứng đực ra, chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, vội hỏi:
- Bác nói cái gì mà kinh thế? Tôi cứ nghe đến hủ hóa là lạnh cả người, da gà nổi rầm rộ ở các chỗ hiểm!
Bác Cả Rí nháy mắt với Cule, cười:
- Chú ý phía đũng quần, có vấn đề đấy!
Rồi bác ngồi vắt chân chữ ngũ, đập bàn:
- Cho một đĩa thịt chó nướng! Thêm cho tôi mấy miếng dồi chó loại đặc biệt! Chuyện này kinh lắm!
- Xong ngay! Xong ngay!
Cule đập hai tay vào mông, nhịp nhịp. Ông đi thẳng vào bếp, lát sau hăm hở bưng ra một đĩa to dồi chó và hai đĩa nhỏ thịt chó nướng.
- Có đây! Có đây! Có đủ hết: thịt chó nướng, dồi chó loại đặc biệt! Bác ưa gì em xin hầu. Em là em háo hức chuyện hủ hóa lắm.
Thực ra, bác Cả Rí chỉ mới nghe loáng thoáng về "vụ thím Hoa và Họa sĩ Tư" qua mồm một người thân cận của Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy. Chủ tịch thị trấn mới là người chính thức được Đại úy Thìn "phổ biến". Dĩ nhiên là "phổ biến nội bộ".
Lần đầu tiên Đại úy có nhu cầu bộc lộ nội tâm của mình. Xưa nay thì không, tuyệt đối không. Người ta luôn thấy ông ở thế hừng hực tiến công: Nói - làm - bàn bạc - cãi nhau - làm... cứ vậy cho đến phút này ông mới thấy cô đơn. Nói với ai? Ai sẽ là người đủ tin cậy giữ kín chuyện này và thông cảm sâu sắc nỗi đau khổ của ông? Hầu hết những người quen biết ông, hay đi lại thăm hỏi ông đều nằm trong danh sách hai trăm mười tám người gồm những người có lý lịch xấu hoặc thuộc tầng lớp tiểu tư sản thành thị, các trí thức ăn nói ngang ngạnh, mất lập trường, có tư tưởng chống đối Chủ nghĩa Xã hội. Họ đang nằm trong kế hoạch phong tỏa và bắt giữ khi cần thiết. Ngay cả Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, tất nhiên không thuộc vào danh sách hai trăm mười tám người kia, cũng là đối tượng Đại úy đang theo dõi. Chưa có bằng chứng đích xác về "khoảng thời gian đen" - một tháng ông Thanh bị địch bắt và nhanh chóng thả ra, không có trong hồ sơ lý lịch - nhưng Đại úy tiếp tục giao nhiệm vụ cho mình truy xét đến tận cùng việc này không thể bỏ qua được. Gần đây, Đại úy mới quyết định cùng với Chủ tịch Lê Đức Huy phản kháng ông Thanh. Đấy là đơn khiếu tố gửi lên Ban tổ chức tỉnh ủy về việc Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh tự ý thả Họa sĩ Tư - phần tử chống Chủ nghĩa Xã hội - không cần cứu xét, không cần nghe cấp dưới. Trong đơn khiếu tố, Đại úy lưu ý với Ban tổ chức tỉnh ủy về mối quan hệ của Họa sĩ Tư và Bí thư huyện ủy thời kháng Pháp. Đại úy còn thả lửng một câu: "Theo một vài nguồn tin chưa được kiểm chứng, chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu, có một khoảng thời gian ngắn vào năm 1947, đồng chí Thanh bị địch bắt nhưng không rõ vì lý do gì địch nhanh chóng thả ra..."
Đến nay Ban tổ chức tỉnh ủy chưa trả lời về việc này. Ông và Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy đang chờ đợi... Mặc dù vẫn thường đàm đạo với ông Thanh về chuyện thời sự trong và ngoài nước, các vấn đề nóng bỏng của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở huyện nhà, Đại úy vẫn chú ý các chi tiết mật, không bao giờ tiết lộ.
Vậy là chỉ có ông Huy, con người trong sạch, hiền lành, có một lý lịch rõ ràng: ba đời cùng khổ, là người đáng tin cậy nhất để ông có thể bộc lộ nỗi đau khổ thầm kín của mình. Nắng chiều dọi thẳng vào mặt Đại úy, nóng rực. Ông chợt thấy đói và khát, y như đang hành quân ở quãng rừng gian truân nhất. Đôi lần ông muốn ngồi xoạp xuống, lăn xoài ra vệ cỏ cạnh đường.
Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy đón Đại úy từ ngoài ngõ. Thoáng thấy sắc mặt Đại úy vẻ khác thường, ông vội vàng chạy tới. Đại úy gần như ngã hẳn vào vai ông, thở dốc. Chủ tịch thị trấn dìu Đại úy vào nhà...
- Cho tôi xin ca nước. - Đại úy nói run run.
- Bác làm sao thế? - Chủ tich thị trấn lo lắng hỏi.
- Cho tôi xin ca nước.
- Vâng.
- Có ai ở nhà không?
- Thưa không.
- Anh ở nhà một mình chứ?
- Vâng.
- Không có ai thật à?
- Thưa thật.
Ông Huy trố mắt nhìn thần sắc của Đại úy: nhợt nhạt tựa một người chết đuối. Tu sạch ca nước, Đại úy ngồi úp mặt vào tay hồi lâu mới từ từ ngước lên. Ông nói, phều phào đứt quãng như người hấp hối. Cuối cùng Chủ tịch thị trấn cũng đã hiểu ra. Thất kinh! Thất kinh! Không ngờ sự thể lại ghê gớm như vậy!
 Sau khi tiễn Đại úy ra về, có hứa sẽ giữ kín chuyện này, Chủ tịch thị trấn đi lại quanh nhà nghĩ ngợi rất lung, thỉnh thoảng rùng mình, rụt cổ lại. Chủ tịch thị trấn nghĩ: "Ấy là vì Đại úy hiền lành, lại là người cộng sản chứ nếu ở chế độ cũ thì Họa sĩ Tư cũng sẽ bị nhúng đầu vào nồi cám lợn. Chứ không à? Kinh thật! Kinh thật!" Chủ tịch thị trấn nhớ lại cái hồi cách đây gần một năm ông chui vào túp lều của Họa sĩ Tư, giở tung sáu mươi tư bức tranh của Họa sĩ, nhìn đi ngắm lại các bức tranh vẽ những mặt người méo mó, những con bò chạng háng choán cả bức tranh, những đứa trẻ mặt đầy nếp nhăn và lún phún ria mép, đặc biệt là những bức tranh vẽ đàn bà trần truồng, những người đàn bà không có đầu, loạn xạ các kiểu đứng ngồi... và nghĩ: "Mình nhầm! Đếch phải của đàn bà hàng tỉnh, đích thị là của con mẹ ấy rồi! Nó vẽ không có đầu là để giấu tung tích, có thế thôi!".
"Con mẹ ấy" tức thím Hoa, Chủ tịch thị trấn tin như vậy. Ông nhắm mắt lại, cố nhớ xem Họa sĩ đã vẽ như thế nào nhưng chịu - "Mẹ khỉ! Mình quên béng đi mất! Hôm nào phải xem lại!".
Vừa lúc người bạn nối khố của ông đến chơi, thường là đến xin thuốc lào và kiếm một chén rượu rắn. Chủ tịch thị trấn túm lấy ngực bạn mình, hấp tấp nói:
- Này, có chuyện này kinh lắm!
Vừa nói xong Chủ tịch thị trấn đã thấy mình lỡ mồm.
- Chuyện gì thế? - Người bạn của ông liền dỏng tai lên.
Đã thế thôi không giấu nữa. Chẳng qua là chuyện cá nhân, đếch phải chuyện cơ quan đoàn thể, giấu làm gì cho nặng bụng.
- Kinh lắm! Kinh lắm! Nhưng mà bác cố mà giữ cho tôi, chuyện "uy tính" đó nghe! - Chủ tịch thị trấn làm bộ nghiêm trọng.
- Ối giời ơi, bác phải dặn tôi chuyện đó sao?
- Ờ, là dặn thế.
Người bạn ông ra mặt giận:
- Tôi có phải con nít nữa đâu.
Chủ tịch thị trấn gãi đầu, cười ngượng nghịu vì đã trót nói một câu khinh thường bạn. Ông bắt đầu thì thào... Nghe xong, người bạn ông vỗ đùi đánh đét, kêu lớn:
- Tôi đã bảo mà! Tàn dư của xã hội phong kiến đấy. Coi chừng! Coi chừng! Hỏng mẹ nó Chủ nghĩa Xã hội như chơi đó bác ơi!
- Suỵt.
Chủ tịch thị trấn vội vàng bịt miệng bạn mình, dặn thêm:
- Chuyện đâu để đấy, bác nghe!
- Chứ sao!
Người bạn Chủ tịch thị trấn phủi đít quần ra về, quên cả việc hỏi xin một chén rượu rắn. Nửa giờ sau, vô phúc cho ông Chủ tịch thị trấn, người bạn ông vớ phải bác Cả Rí.
- Tôi kể cho bác nghe chuyện này, cơ mật lắm! Nếu bác để lộ cho ai biết thì trời đánh bác chứ không phải đánh tôi đâu nhé!
Người bạn Chủ tich thị trấn nhìn bác Cả Rí với bộ mặt nghiêm trọng.
- Chết chửa! Bác khinh tôi quá nhỉ? - Bác Cả Rí mát mẻ - Gần năm sáu bảy thứ tóc trên đầu mà bác còn dặn tôi thế?
- Ấy là nói vậy!
- Ờ...
Miệng người này dính vào tai người kia. Bác Cả Rí "ờ" và gật gật, "ờ" và gật gật và kêu to:
- Ôi giời ơi, hủ hóa!
Thế là đến sớm hôm sau bác Cả Rí xách một xâu lươn xộc thẳng vào quán thịt chó Cule, "ném vào mặt" Cule tin trời đánh này, buộc Cule phải mất không một đĩa dồi chó loại đặc biệt. Cule đứng ghé sát mặt bác, ghé sát vào, ghé sát nữa vào miệng ngậy mùi thịt chó của bác Cả Rí để mà nghe. Bác Cả Rí thì thầm như vầy, như vầy... Cule mắt hấp háy, mồm há dần, cuối cùng ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Đến vợ Đại úy mà chúng nó chẳng tha! Khổ thay! Thế thì vợ con bọn cần lao chúng ta là cái mả mẹ gì, hả? Thậm nguy! Thậm nguy!
Bác Cả Rí nhắc lại:
- Chú ý phía đũng quần.
Đoạn, bác cúi chào quán thịt chó, xách xâu lươn đi thẳng. Ngày hôm sau, hôm sau nữa, dân thị trấn có thêm chuyện để bàn, lật ngược lật xuôi "các vấn đề", thì thào thì thào và ôm bụng cười ha hả.







Chương năm





Kể từ đêm bị Đại úy Thìn bắt quả tang và chịu đựng những quả đấm trời giáng của Đại úy đến nay đã tròn ba tháng, Họa sĩ Tư không một lần bước chân đến nhà Đại úy, không một lần thấy bóng thím Hoa. Họa sĩ sống ru rú trong túp lều lá mía ngày này qua tháng khác. Luôn luôn Họa sĩ thấy không an tâm. Mỗi bận ngoảnh mặt về phía Tây thị trấn, nom thấy hai ngọn cây dừa trước cổng nhà Đại úy rung rung, anh thấy ngực mình nhói đau, có khi nhức buốt mãi. Ngày nào anh cũng thấy cần phải làm một việc gì đó, đi một nơi nào đó hoặc nói một điều gì đó với ai đó. Chẳng khi nào thực hiện được, lại ngồi hối tiếc về một ngày vô tích sự đã trôi qua. Đã trôi qua biết bao ngày thế này rồi? Họa sĩ lẩm nhẩm đếm, càng đếm càng mù mịt, lại ngồi đừ ra mà nuối tiếc. Tại sao mình không làm được một việc gì cho có ích, không có ích cho tất cả thì cũng có ích cho một người? Họa sĩ tự hỏi. Hỏi chỉ để ngồi ngáp dài, mệt mỏi. Anh chui vào lều lôi cái đàn ghi-ta vừa tậu được, rung lên những giai điệu nhạt nhẽo, buồn chán. Người ta đang nghi ngờ anh là "Việt gian bán nước" hay đại khái như vậy. Nhiều đêm bất ngờ tỉnh dậy, thấy một vài bóng đen núp dưới chân, anh hắng giọng, quát: "Đứa nào đó, hả?". Những cái bóng đen này lẳng lặng biến mất. Một đôi lần đã nghe Chủ tịch thị trấn nói bóng nói gió rằng sẽ có lúc, lúc nào thì không biết, Họa sĩ sẽ đứng trước tòa án của nhân dân. Anh nhếch mép cười và nhớ lại, kể từ ngày cùng hai mươi chín trai tráng trong làng xắn quần móng lợn, băng qua trảng cát cứ thẳng hướng Chóp Chài mà tiến, đến nay đã hai mươi năm. Ngần ấy năm "bám váy cách mạng" (Họa sĩ hay nói vậy vì luôn nghĩ mình là kẻ ăn hại) chưa một lần nào anh nghi ngờ cách mạng và xã hội mà mình đang sống. Họa sĩ chỉ thấy ngứa ngáy, khó chịu về những kẻ bần tiện và dốt nát đang giữ những vị trí quan trọng trong xã hội mình tin yêu. Những kẻ ấy mặc nhiên đang được số đông coi trọng, đang có uy tín cực kỳ. Họ bắt anh nếu đã yêu (Chủ nghĩa Xã hội) thì phải yêu đúng như họ đang yêu. Họ yêu làm sao thì anh phải yêu làm vậy. Họ không biết, hoặc cố tình không biết, tình yêu hẳn nhiên là có nhiều cung bậc, hãy để cho trái tim rung theo đúng cung bậc của chính mình thì tốt biết bao nhiêu. Đa số trong họ không ai biết mấy nghệ thuật mà Họa sĩ ném cả đời mình vào đấy. Thế nhưng kỳ quặc thay, họ luôn tỏ ra là họ quá hiểu và ép anh phải làm theo đúng điều mà họ hiểu kia. Họ gợi ý cho anh các loại đề tài, đôi khi còn tham gia và bố cục một bức tranh. - "Anh bộ đội sao lại đứng xa thế kia?" - "Chị nông dân phải giơ cao cái liềm chứ" - "Cái búa đâu, bỏ mẹ, công nhân mà không cầm búa à?". Họ còn dòm ngó vào cách pha màu của Họa sĩ, xem có dụng ý gì không, và run lên nếu bức tranh chỉ toàn màu lạnh. Run lên... nghĩa là tức run lên, thế đấy. Họ cho rằng, hơn ai hết, họ là bác sĩ tinh thần của nhân dân. Họ sợ nhân dân vị nhiễm các nọc độc tư sản. Vì quá u mê về nghệ thuật, họ loại hết những gì Họa sĩ vẽ mà họ không hiểu, loại hết, sạch sành sanh. Bây giờ Họa sĩ phải làm theo đúng yêu cầu của họ. Cần có nhiều lợn gà, hãy vẽ một đàn lợn gà to béo; cần đồng lúa tăng sản, hãy vẽ một cô gái xinh tươi gánh hai bó lúa to đứng trước một cánh đồng lúa vàng trĩu hạt; cần sinh đẻ có kế hoạch, hãy vẽ một cái vòng thật to, ở giữa là một gia đình hai con hạnh phúc...
- Ối giời đất ơi, thế thì tôi chịu! Bố tôi sống lại cũng xin hàng!
Họa sĩ kêu lên và từ chối quyết liệt. Anh công khai tuyên bố rằng đó là loại nghệ thuật thô thiển, thứ minh họa đần độn mà mình luôn luôn khinh rẻ. Thế là chạm phải vấn đề "lập trường tư tưởng". Thế là cãi nhau, cãi nhau to. Ức quá, Họa sĩ đập bàn, đập ghế, chửi um lên, lại còn "đù mẹ đù cha" nữa. Trong khi đó họ vẫn bình thản như không, cứ "đường lối chủ trương" mà phát biểu. Họa sĩ phải sai, sai bét! Chứ không à? Nếu đã yêu chủ nghĩa xã hội sao lại chống đối chủ trương đường lối? Lại còn "đù mẹ đù cha"? "Đù mẹ đù cha" ai? Vì sao lại "đù mẹ đù cha"? Và "đù mẹ đù cha" nghĩa là thế nào?...
Họa sĩ nốc một cốc rượu đầy, ngồi tựa vào vách nứa, mắt lim dim. Lúc này đã sẩm tối, những người đánh cá đêm đã ra sông, lần lượt đỏ đèn sáng rực một dãy dài bờ bên kia. Anh ngoái cổ nhìn trừng trừng ngọn đèn măng-sông lần lượt được thắp đèn. Tiếng lóc cóc, lóc cóc của những người lùa cá.
- Mẹ kiếp mấy con cá, ngu! Đèn măng-sông lại tưởng là mặt trời. Tí ta, tí tởn... vào rọ tất!
Anh bật cười. Mới đầu cười khục khục, sau, không rõ lý do gì bỗng cười ha ha ha, vuốt mũi một cái lại cười ha ha ha... Cũng vừa lúc Hoàng đẩy cửa bước vào. Hoàng rùng mình thấy một "bãi chiến trường" dưới chân Họa sĩ: ngổn ngang giấy má, tre nứa và vỏ chai - vô số là vỏ chai. Hoàng đứng tần ngần một lát, khẽ chào Họa sĩ, rồi rón rén bước qua đống hổ lốn đồ đạc, vật liệu lăn lóc bừa bãi giữa nền nhà đến ngồi lên cái thùng sắt rỉ úp ngược. Chẳng thấy gì ngoài đống tranh xếp lộn xộn đầy góc lều và mấy cái nồi vứt lỏng chỏng quanh đấy. Hình như ngày hôm nay Họa sĩ không nấu ăn, không có gì để nấu ăn. Cái thùng sắt rỉ dùng để đựng gạo bây giờ đã lật ngược. Hai chai đựng nước mắm nằm lật nghiêng, trống không, kiến bò đầy đít chai. Không có gì có thể nhá được trừ hai con mực nướng bị gặm nham nhở trong cái đĩa sắt tây cạnh chân Họa sĩ. Hẳn nhiên rượu vẫn có, nhiều là đằng khác: một chai đang uống dở, dưới gầm bàn còn nguyên xi hai chai. Tính Họa sĩ vốn vậy, hết tiền mua gạo - đó là một "chân lý"; luôn sẵn tiền mua rượu - lại là một "chân lý" khác. Không ai tin được, nhưng quả đúng như vậy. Thế mới buồn cười, Họa sĩ bao giờ cũng buồn cười.
- Hoàng đấy à? Hoàng phải không nhỉ?
Họa sĩ bỗng ngước lên, giương mắt nhìn Hoàng y như vừa bắt gặp một thiên thạch.
- Vâng, cháu... - Hoàng rụt rè trả lời.
- A ha ha... Hoàng! Té ra là Hoàng thật!
Họa sĩ bò tới ôm lấy hai đầu gối Hoàng cười ha hả.
- Đang buồn, ối giời đất ơi, buồn thê lương chú mày ạ. Nào, đem kiểm tra xem đang là "chim" hay đã thành "cu" rồi nào! ... A ha ha "cu"! "Cu"! Chú mày lớn từ lúc nào thế?
Hoàng thấy nhột, hất nhẹ tay Họa sĩ ra, nói:
- Hôm nay ngày sinh nhật của ba cháu đấy, chú Tư. Ba cháu mời chú đến chơi. Hình như lúc chiều ba cháu có nhắn với chú rồi...
- À... ờ nhỉ? Ôi thôi bỏ mẹ tôi rồi! Mười bảy tháng Bảy...
Họa sĩ lồm cồm bò dậy, vớ lấy áo trắng cáu bẩn móc ở phía trên thùng gạo:
- Đi chớ! Bí thư huyện ủy mời mà dám không đi à? Có muốn chết...
Nói vậy nhưng Họa sĩ lại ngồi bệt xuống, cầm chai rượu thong thả rót đầy hai chén.
- Uống một chén đã Hoàng. Tập làm đàn ông đi. Làm đàn ông sướng lắm chú mày ơi, sư-ướng lắm!
Hoàng đỡ chén rượu từ tay Họa sĩ. Anh không uống, chăm chăm nhìn gương mặt hốc hác của Họa sĩ. Họa sĩ tu sạch chén rượu đầy, "khà" một tiếng thật to, đưa tay áo quệt mồm, lè nhè:
- Chà, sinh nhật sinh nhiếc... hì hì... chúng nó lừa ba cậu đấy chứ ba cậu dân nhà quê biết quái gì cái trò này. Hả? Biết gì... Chúng nó muốn hà hít ba cậu để nương thân đấy... Ba cậu có biết chúng nó muốn bịa ra cái sinh nhật để hà hít không? Biết qua đi chớ. Dân nhà quê thế chứ khôn tổ bố. Tôi còn lạ gì ba cậu... Không ai lừa được ba cậu đâu nhé. Ông ấy chỉ giả vờ bị mắc lừa thì cực giỏi. Thật đấy, ba cậu ấy mà...
Họa sĩ khua khua chén rượu trước mặt mình, nói liên miên. Hoàng không giận - giận Họa sĩ thì giận cả đời - chỉ thấy buồn. Một lần, nhân chuyện gì đó Hoàng có hỏi ba anh:
- Chú Tư nói vậy có đúng không?
Ba anh tủm tỉm cười:
- Chú ấy luôn luôn nói đúng một nửa sự thật.
Hoàng lại hỏi:
- Tại sao chú Tư chỉ nói đúng một nửa sự thật?
Ba anh trả lời:
- Nửa sự thật còn lại có thể chú ấy không biết, không thấy hoặc có biết, có thấy nhưng không tin.
Hoàng gặng hỏi:
- Tại sao chú ấy có biết có thấy lại không tin?
Ba anh thở dài:
- Thì chính ba cũng đang hỏi ba câu ấy.
Nếu ba anh nói đúng, tức Họa sĩ luôn luôn nói đúng một nửa sự thật, vậy nửa sự thật còn lại sẽ nằm ở phía nào trong cái sự lè nhè của Họa sĩ về chuyện "sinh nhật, sinh nhiếc" kia?
Họa sĩ chống gối đứng dậy, lảo đảo tiến về phía cây đàn ghi-ta treo lủng lẳng trên đống xoong nồi. Họa sĩ ôm đàn ghi-ta ngồi bệt xuống chiếu, khịt khịt mũi.
- Dù sao cũng phải chúc mừng ngày sinh nhật của một ông đầu têu huyện, đúng không?
Họa sĩ giương mắt nhìn Hoàng, nhấp miệng một cái rồi cao giọng:
- Nào, cậu đem chai rượu lại đây, rót đi. Tôi và cậu chúc mừng ba cậu.
Hoàng rót đầy hai chén, ngồi bệt xuống chiếu, đối diện với Họa sĩ. Họa sĩ nâng cốc, mắt long lanh.
- Nào, chúc mừng Chủ nghĩa Xã hội huyện nhà, dưới sự lãnh đạo của Bí thư Thanh và Đại úy Thìn ngày mỗi tươi sáng.
Cốc! Tách!
- Chúc đồng chí Thanh kính mến của chúng ta sống dai hơn và khôn vặt nhiều hơn!
Cốc! Tách!
Họa sĩ hất hàm:
- Cậu phải nói đi chớ.
Hoàng cười, lắc đầu. Anh liền nhấp một ngụm. Đấy là những giọt rượu đầu tiên trong đời anh. Những giọt rượu nóng rực chạy ngoằn nghèo trong bụng, chạy đến đâu biết đến đó. Anh nghĩ thầm: "Gớm, rượu nóng như lửa là vậy mà chú Tư ngày nào cũng vài chai thì còn gì là ruột gan? Ghê thật".
- Cậu phải nói đi chứ. - Họa sĩ nhắc lại.
Hoàng lắc đầu:
- Cháu chả biết chúc.
- Thì cứ nói đại một câu gì đấy!
Ngần ngừ một lát, Hoàng nâng cốc lên, vui vẻ:
- Chúc ba cháu ngày mỗi mạnh khỏe. Chúc ba cháu và chú Tư đều có vợ!
- Há hô hô hô... Thằng này làm lãnh đạo được, nói năng khôn tổ bố.
Họa sĩ Tư cười, ôi chao là cười. Vừa cười vừa "hay" "được" "khá".
Cốc! Tách!... Cốc! Tách!... Cốc! Tách!
Họa sĩ hào hứng tung cây đàn ghi-ta lên, hát. Họa sĩ hát rất hay, giọng ấm và trong, vang xa như giọng bất kỳ ca sĩ có hạng nào trong tỉnh, không gợn một chút lè nhè nào.
Rồi mọi sự sẽ qua đi, may mắn và cay đắng. Rồi mọi sự sẽ qua đi, kẻ ác và đứa thiện. Anh và em là cái cóc khô gì mà nuối tiếc...
Rồi mọi sự sẽ qua đi, cỏ sẽ lên xanh. Anh và em là cái cóc khô gì vương vấn nhau hoài...”
Hoàng há hốc mồm nghe Họa sĩ, sướng lịm sườn. - "không biết bài hát của ai mà hay thế?"...
Toàn thân Họa sĩ rung lên theo nhịp điệu u sầu của bài hát. Họa sĩ mở to mắt, đăm đắm nhìn vào góc tối, nơi có bức tranh đang đặt úp lên cái ghế đẩu, y như Họa sĩ hát vì bức tranh, cho bức tranh.
"Không biết bài hát của ai mà hay thế?"... - Hoàng nhắm nghiền mắt, bất giác nhớ đến tấm thân nõn nà của Thùy Linh buông xuống dòng sông, như một mảnh trăng non dập dềnh...
Họa sĩ đang ngật ngưỡng với cây đàn ghi-ta của mình, không nhớ đến Hoàng nữa, toàn thân rung lên theo nhịp điệu u sầu của bài hát, mắt vẫn không rời góc tối, nơi có bức tranh đang đặt úp lên cái ghế đẩu. Hoàng đứng dậy, tiến về phía bức tranh, nhấc lên. Tiếng hát im bặt. Họa sĩ bần thần nhìn theo Hoàng. Hoàng giơ cao bức tranh sơn dầu có cái tên: "Trăng thượng huyền" về phía Họa sĩ:
- Chú mới vẽ đấy à?
- Ờ, mới. Được không?
Hoàng cười:
- Cháu biết gì mà được với không?
Hoàng vẫn ngắm nghía bức tranh, cố tìm xem "ý nghĩa" bức tranh là như thế nào. Bức tranh đặc tả một người đàn ông đứng đối diện với một người đàn bà trên vầng trăng non được vẽ như cái thuyền treo lơ lửng giữa nền trời màu tro xám. Hai người đều trần truồng, trắng lốp. Người đàn ông thấp bé, gầy còm, vẻ mặt kiêu hãnh hơi ngẩng lên, hai tay hướng về người đàn bà. Người đàn bà thân hình cân đối thon thả, mông và ngực nở căng, gương mặt đau đớn như đang chạy từ một nơi giông gió đến. Hai tay cũng hướng về người đàn ông. Họ đang hướng về nhau, cố tiến về nhau, nhưng có một sức mạnh siêu nhiên nào đó ngăn cản họ, buộc họ phải dừng lại ở một khoảng cách rất nhỏ, nhỏ đến mức chỉ cần cố lên một chút nữa là họ có thể ôm chầm lấy nhau... Thế mà không được, không cách gì có thể được. Đôi cánh tay trần người đàn bà đang run lên, chới với...
- Chú vẽ ai thế này?
Hoàng ngước nhìn Họa sĩ. Họa sĩ buồn rầu đáp:
- Không ai cả. Nghệ thuật là hư cấu, tôi chỉ hư cấu...
- Không đúng!
- Sao?
Họa sĩ ngơ ngác, mắt chớp chớp. Hoàng quả quyết:
- Chú vẽ chú và thím Hoa!
Họa sĩ bật dậy, lừ lừ đến chỗ Hoàng, toàn thân nghiêng ngả, tựa một cơ thể đã rệu rã, chỉ một chút xíu nữa là đổ sập xuống, văng ra từng mảnh một.
- Ai bảo cậu? Ai bảo cậu... rằng thì là... tôi là... vẽ tôi và...
Trông Họa sĩ dữ tợn hẳn: mắt trợn ngược, hai hàm răng nghiến chặt. Hoàng tủm tỉm cười, đặt bức tranh về chỗ cũ.
- Chú giả vờ làm gì, cháu biết hết! Đấy là bức tranh nói về hoàn cảnh của chú và thím Hoa.
Thế là Họa sĩ bỗng như một kẻ cuồng, nhảy nhót, khoa chân múa tay.
- Thế à? Cậu biết thật à? Hé he he... Thế mà tôi cứ nghĩ chỉ có tôi, đích thị là tôi, không ai khác hơn là tôi mới hiểu nó! Ghê gớm chưa: nghệ thuật!... Tôi vẽ tôi đấy! Tôi vẽ tôi và vợ anh tôi đấy! Cắt cổ tôi đi! Ai cắt cổ tôi thì cứ việc, xin mời!
Họa sĩ lại nâng cây đàn ghi-ta lên, đứng chạng chân tựa vào vách lều, hát. Hát như một kẻ điên khùng:
Rồi mọi sự sẽ qua đi, may mắn và cay đắng. Rồi mọi sự sẽ qua đi, kẻ ác và đứa thiện. Anh và em là cái cóc khô gì mà nuối tiếc.
Rồi mọi sự sẽ qua đi, cỏ sẽ lên xanh. Anh và em là cái cóc khô gì mà vương vấn nhau hoài...”
Hoàng bỗng rưng rưng nước mắt.
Lát sau, Họa sĩ nhờ Hoàng bí mật trao bức tranh "Trăng thượng huyền" cho thím Hoa. Hoàng vui vẻ nhận lời.
- Cậu về trước đi. - Họa sĩ bíu vai Hoàng vừa thở vừa nói: - Nhà cậu bây giờ toàn loại tai to mặt lớn đến mừng sinh nhật ba cậu... Tớ đến sớm dễ phá đám lắm. Về đi, tớ sẽ đến sau...
Hoàng chui ra khỏi lều, ngoái lại chợt thấy Họa sĩ rủ xuống, nằm còng queo trên tấm chiếu rách. Hoàng vừa đi vừa ngoái lại mãi cho đến lúc chỉ còn thấy ngọn đèn dầu trong túp lều cháy yếu ớt, hiu hắt như mắt Họa sĩ thỉnh thoảng ngước lên, ngóng đợi một điều gì...

                                          *
                                         *          *
Thùy Linh chạy băng qua cánh đồng nhỏ đến nhà Hoàng. Cô cần phải gặp Hoàng ngay. Cũng chẳng để làm gì cả, cô rất muốn gặp anh, thế thôi. Trong cô đang có một chấn động khủng khiếp mà trái tim non dại của cô chưa đủ sức chịu đựng. Cô tìm gặp Hoàng không phải để giãi bày "chấn động" này. Cô sẽ không cho ai biết, bất cứ ai, kể cả mẹ cô. Bởi vì cô thấy xấu hổ, không, bởi vì cô thấy nhục nhã, và ghê tởm...
Chuyện vừa xảy ra xong nhưng nó có mầm mống từ hai ngày trước.
Đó là buổi chiều thứ Năm. Trần Hới đột nhiên đến chơi nhà Thùy Linh. Cô đang làm cá, cảm thấy một đôi mắt đang nhìn sau gáy mình. Thùy Linh quay lại: Trần Hới đang đứng khoanh tay nhìn cô, cách chừng hai bước chân.
- Thưa thầy... thầy đến chơi.
Trần Hới mỉm cười, khẽ lắc đầu:
- Tôi bây giờ đâu còn là thầy của Thùy Linh nữa.
- Dạ, nhưng mà...
Thùy Linh cười, dẹp cá sang một góc, rửa tay.
- Cứ làm cá tiếp đi. Tôi đứng đây nói chuyện cũng vừa.
- Mời thầy vào nhà chơi.
Thùy Linh tránh cái nhìn của Trần Hới, cúi đầu đi vào nhà. Trần Hới chậm rãi bước theo sau. Thùy Linh thấy lạ, không dưng thầy lại đến chơi? Đã hai năm nay, từ ngày thầy bị kỷ luật vì tội ăn nằm với một học sinh lớn tuổi, buộc thôi dạy toán về coi Phòng Giáo cụ Trực quan, thầy không đến chơi nhà học trò nữa. Đã hai năm, thầy ra ra vào vào quanh khu vực nhà trường. Thường là chỉ luẩn quẩn quanh Phòng Giáo cụ Trực quan. Năm nay thầy bỗng trúng Ban chấp hành đoàn trường, được bầu làm Bí thư đoàn trường, phạm vi đi lại của thầy có rộng hơn nhưng cũng chẳng vào nhà học trò. Thầy chỉ đi lại từ trường lên huyện đoàn, đôi khi rẽ qua Ủy ban Hành chính thị trấn, thế thôi.
Chuyện thầy bỗng nhiên trúng Ban chấp hành đoàn trường rỗi bỗng nhiên trúng Bí thư đoàn trường với số phiếu gần tuyệt đối làm nhiều người ngạc nhiên. Có nhiều cách giải thích khác nhau. Cách giải thích phổ biến nhất: Trần Hới là một thanh niên đa tài. Thầy hát hay, chơi ghi-ta thần tài và hoạt bát, năng nổ. Nếu không có vụ hủ hóa nghiêm trọng kia thì thầy đã được bầu làm Bí thư đoàn trường khóa trước. Cách giải thích thứ Hai, chỉ phổ biến nội bộ - bằng phương pháp rỉ tai - là thầy, chính thầy đã ủng hộ thầy hiệu phó rất quyết liệt khi thầy hiệu trưởng và thầy hiệu phó xích mích nhau. Rồi không rõ vì sao bỗng dưng thầy hiệu trưởng bị cách chức vì tội tham ô. Tham ô gì thì Thùy Linh không biết (học trò không được biết chuyện thầy giáo), chỉ nghe nói là thầy hiệu trưởng lấy của nhà trường bốn tấn xi măng về xây nhà riêng. Người nói: làm gì có, thầy hiệu trưởng không bao giờ làm chuyện đó. Người nói: không có mà bị cách chức à? Người nói: Trần Hới là thằng vu cáo. Người nói: Trần Hới là người trung thực, dám đấu tranh... Linh tinh cả lên, chẳng ra đầu cua tai nheo gì cả. Khi Thùy Linh và Hoàng bước vào năm học mới, cũng là năm cuối cùng của tuổi học trò, cô và Hoàng đều được kết nạp Đoàn và lần đầu tiên được dự Đại hội Đoàn trường, thì vụ tham ô của thầy hiệu trưởng đã được kết luận. Thầy hiệu trưởng bị điều đi dạy một trường khác. Thầy hiệu phó lên làm hiệu trưởng. Trần Hới được chi bộ nhà trường đề cử vào Ban chấp hành đoàn trường. Chi bộ đã giới thiệu thì bỏ vào cối đâm cũng không trật. Người ta nói thế. Và có thế thật, Trần Hới đắc cử. Ba tháng sau, do yêu cầu nhiệm vụ, người ta không thể để một Bí thư đoàn trường ở ngoài Đảng, vô lý. Vậy là Trần Hới được kết nạp và Đảng. Thật không ngờ.
Công việc đầu tiên của thầy là tổ chức ngay một đội văn nghệ. Thùy Linh cùng với hai bạn gái trong lớp được điều động vào đội văn nghệ. Cũng là lẽ đương nhiên, Thùy Linh hát hay và đẹp. Hát hay đã quý rồi, đằng này lại đẹp nữa, đội văn nghệ lập tức nổi tiếng. Thi huyện nhất huyện. Thi tỉnh nhất tỉnh. Đặc biệt nhất là điệu múa "Đầm sen"...
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng...
Thùy Linh từ từ đứng dậy giữa những "cánh sen" trắng. Cô mặc bộ đồ lụa vàng mỏng, uốn mình thực hiện những đường lượn tuyệt vời...
Nhụy vàng bông trắng lá xanh...
- Hoan hô!
- Múa lại!
- Ho-an-hô-ô!
Bao giờ cũng thế, ở đâu cũng thế, điệu múa "Đầm sen" đều được khán giả vỗ tay vang dội.
Cái đêm kết thúc cuộc thi văn nghệ quần chúng của 120 đội văn nghệ tại thị xã Đ. ban giám khảo quyết định trao giải nhất cho đội văn nghệ trường cấp ba huyện Linh Giang. Trần Hới đứng trước bốn ngọn đèn pha, khiêm tốn cúi chào một ngàn khán giả. Tất cả đều xuýt xoa trước vẻ đẹp mê li của thầy.
- Hoan hô!
Không biết người ta hoan hô Bí thư đoàn trường nổi danh vì xây dựng được đội văn nghệ nổi danh hay hoan hô vì "thằng cha này quá đẹp!". Thùy Linh đứng trong cánh gà nhìn xuống hội trường thấy một ngàn cặp mắt long lanh, long lanh... Trần Hới đi vào, thầy dừng lại trước mặt Thùy Linh.
- Tôi thấy xúc động quá, Thùy Linh ạ.
- Vâng... em cũng mừng...
Trần Hới nắm hai bả vai Thùy Linh siết mạnh.
Trần Hới cúi xuống, cúi xuống nữa... Bất ngờ Thùy Linh ngước lên, bắt gặp hai tia mắt sáng xanh của thầy đang dần áp sát mặt mình. Cô giật mình lùi mau ra.
- Cám ơn Thùy Linh!
Thùy Linh vùng chạy. Cô chạy thục mạng ra phía sau hội trường. Cô run lên, đứng dựa vào tường chắn gió thở dốc. Suýt nữa, suýt nữa... cô bị một cái hôn của thầy rơi xuống...
Đấy là chuyện cũ. Từ ngày Thùy Linh thôi không tham gia đội văn nghệ nữa, cô cũng ít gặp thầy. Thỉnh thoảng có gặp, Thùy Linh đều thấy vẻ ăn năn hối lỗi qua cái nhìn dịu dàng lẫn đau khổ của thầy.
- Tôi đến để báo cho em một chuyện buồn. Trần Hới bẻ ngón tay, thong thả nói.
- Sao ạ? - Thùy Linh ngừng rót nước, hỏi.
Trần Hới đưa tay vuốt nhẹ mái tóc ốp rất đẹp của mình, khẽ thở dài. Hai tay chống trán, ngồi im lặng rất lâu. Lát sau ngẩng lên, buồn rầu nói:
- Tôi sắp có vợ rồi!
Thùy Linh bật cười:
- Thầy nói đến hay! Sắp có vợ lại buồn.
Trần Hới nhếch mép, vẻ chán chường. Nhấp một ngụm nước chè nóng, mắt lơ đãng nhìn ra cửa sổ.
- Cuối cùng là số phận, - Thầy nói: - Số phận Thùy Linh ạ. Em có biết cô Cam không?
- Cô Cam dạy cấp một ấy à?
- Đấy. Ngày mai, đúng mười tám giờ tôi sẽ tổ chức... cưới cô ấy.
Thùy Linh tròn mắt. Không ngờ thầy lại cưới cô Cam. Thầy đẹp giai thế, nổi tiếng thế... Tất nhiên, cô Cam bản tính hiền lành, nhu mì, về hạnh kiểm chẳng có gì phải bàn cả. Có điều, quả là cô xấu quá, mặt tròn phẹt, rỗ hoa, người lùn, tròn quay như cái cối xay. Bọn con trai xấu miệng vẫn gọi cô là "Cam thị nở"... Đã xấu lại cao tuổi. Không chừng còn lớn tuổi hơn thầy. Thùy Linh bỗng chạnh lòng thương thầy. Ừ, có lẽ là số phận cũng nên. Chao ôi, cái số phận thật kinh khủng.
- Tôi đến nhờ Thùy Linh - Trần Hới chậm rãi nói, giọng đầy vẻ chán chường: - ngày mai, đúng mười tám giờ đến giúp tôi hát mấy bài, gọi là liên hoan văn nghệ.
- Vâng... - Thùy Linh khẽ nói rồi bỗng nhiên nói to: - Nhưng thầy yêu cô Cam bao giờ thế? Lâu nay em có thấy thầy đi lại nhà cô bao giờ đâu?
Trần Hới cười dài, lấy khăn mùi xoa chùi nước mắt sống.
- Yêu à? Không yêu mà cưới sao? - Thầy lắc đầu: - Thôi, nói chuyện ấy thêm buồn... Thực ra tôi đâu có yêu... Tôi đùa giỡn chút ít hóa ra thật...
Trần Hới chào Thùy Linh, lẳng lặng ra về. Thùy Linh đưa thầy ra ngõ. Hai người sóng đôi, nhưng bước đi chậm và buồn. Đến hàng rào cây dâm bụt, Trần Hới ngắt một bông hoa, để vào lòng tay xoay xoay.
- Đến bây giờ thì tôi bỗng khinh tôi, ghê tởm tôi... Và, tôi có thể... nói điều này với Thùy Linh... - Thầy ngừng nói, thở dài: - Nói bây giờ Thùy Linh có thể tin, còn trước đây thì không thể... Bởi vì, tôi đã có "dớp" rồi! Tôi yêu em, Thùy Linh ạ, tôi yêu em! Thế đấy!...
Thầy bước nhanh ra ngõ, đi như chạy, đầu cúi gầm xuống mặt đường.
Thùy Linh không ngạc nhiên. Cô đã biết điều ấy từ lâu, từ rất lâu rồi. Cô cũng chẳng muốn thầy nói ra bởi vì cô đã có Hoàng. Cô yêu Hoàng và sợ thầy. Nhưng lúc này, không hiểu sao cô lại thấy thương con người mà mình luôn luôn lẩn tránh ấy. Ừ, số phận cả thôi mà...
Tối hôm sau Thùy Linh đến đám cưới đúng giờ. Lúc đầu cô định rủ Hoàng cùng đi. Sau, nghĩ lại, biết Hoàng không thích chỗ đông người, nên thôi.
Đám cưới lớn, rất lớn, lớn và rầm rộ, vượt ra ngoài tưởng tượng của Thùy Linh. Đủ mặt tất cả quan chức trong huyện, kể cả ba Hoàng. Con gái phó Bí thư huyện ủy kiêm Chủ tịch huyện cưới chồng, đáng ra không thể cưới được chồng lại cưới được ông chồng quá đẹp trai. Vậy là người ta xô nhau đến, ầm ào náo nhiệt, tầng tầng lớp lớp chật cứng cả hội trường lớn của huyện. Cô dâu mặc áo dài màu tím, có thắt nơ hồng đính ở ngực, cài vòng hoa nhài trắng ở đầu. Chú rể bận com-lê xanh, thắt nơ xanh đính ở ngực. Mặt hai người rạng rỡ, tràn ngập hạnh phúc, khoác tay nhau bước vào hội trường. Pháo nổ kéo dài mười chín phút. Giới thiệu, vỗ tay. Cô dâu chú rể đứng ra chào hai họ, vỗ tay. Đại diện gia đình, Chủ tịch huyện đứng ra đọc một bài diễn văn, vỗ tay. Sau đó là chương trình văn nghệ kéo dài hai tiếng đồng hồ. Thùy Linh hát hai bài. Bài nào cũng được vỗ tay nhiệt liệt. Cuối cùng đám cưới cũng phải tàn. Đã mười hai giờ đêm. Đội văn nghệ ở lại ăn mặn với gia đình thêm hai giờ nữa là hai giờ sáng.
- Tôi sẽ đưa Thùy Linh về.
Trần Hới thay bộ com-lê, bận đồ xanh công nhân, vui vẻ nói với Thùy Linh.
- Thưa thầy, em về một mình được.
- Thôi đi! Nhà em ở xa nhất, con gái không nên đi một mình.
Đoạn, thầy quay lại cô Cam lúc này vẫn đang bận áo dài màu tím, hình như cô không muốn thay cái áo quá đẹp này...
- Anh đưa Thùy Linh về nhà. Học trò anh... nó ở xa.
- Dạ! - Cô Cam mỉm cười gật đầu. Cô đang hạnh phúc, ai muốn làm gì mà chẳng được.
Trần Hới cùng Thùy Linh bước ra đường. Đêm rũ xuống đen đặc. Gà gáy. Những con gà trống chán đêm rướn cổ, đập cánh gáy vang động. Với gà trống, đêm tối là ngục tù của nó. Còn con người thì ngược lại, họ có hai phần: phần ánh sáng và phần bóng tối. Bóng tối cũng có nhiều việc phải làm. Nói chung, người ta dùng ánh sáng để làm phận sự của phần Người, bóng tối để làm nốt phận sự còn lại, cũng rất quan trọng- phần Con! Việc phân chia này cũng chỉ là qui ước tương đối, trong thực tế cứ lộn tùng phèo cả lên.
- Nói chung, tôi là một thằng hèn. - Trần Hới nói.
- Sao ạ? - Thùy Linh hỏi.
- Bởi vì... Lý ra tôi không nên nhảy vào đám cưới ngớ ngẩn này.
- Thầy đừng nói thế. Số phận, phải chấp nhận...
Họ đi sát bên nhau, trong cái phần bóng tối của con người. Thỉnh thoảng đưa đẩy vài câu rồi im lặng. Thùy Linh thấy lạnh, cô khoanh tay trước ngực, bước theo thầy. Trần Hới cũng khoanh tay chậm rãi bước.
Những con gà trống chán đêm rướn cổ, đập cánh gáy vang động.
Bất ngờ, Trần Hới đưa tay khoác qua vai Thùy Linh, kéo sát. Giật mình, Thùy Linh bắn người ra xa.
- Thầy!...
Trần Hới nhào tới, choàng lấy cô siết mạnh.
- Thầy-ầy!... Thầ-ầy!...
- Tôi yêu em, Thùy Linh. Tôi sẽ rũ bỏ tất cả, rũ bỏ tất cả để có em!
Trần Hới ghì chặt môi mình lên mặt Thùy Linh, hôn điên dại. Thùy Linh kêu to:
- Buông ra! Buông ra!
Và toàn bộ sức mạnh trinh nữ đã đánh bật Trần Hới ra xa, Thùy Linh vùng chạy.
- Hoàng ơi! Cứu!...
Cô hét lên, hét rất to. Thị trấn Linh Giang đã ngủ say. Người nào không ngủ thì đang cạy cục thực hiện cái phần Con, không còn ai nghe thấy. Thùy Linh chạy một mạch về nhà. Cô lao vào, đập cửa dữ dội:
- Mẹ! Mẹ! Mẹ!
Và cô ngã vào lòng thím Hoa, òa khóc.


                                         *
                                       *          *



Hoàng bước vào nhà, các vị tai to mặt lớn (theo cách nói của Họa sĩ Tư) trong huyện đã có mặt đầy đủ, trừ Đại úy Thìn do phải trực chỉ huy không đến được. Bốn dãy bàn, sáu mươi người đang ôm bụng cười ha hả vì một câu nói đùa của ba Hoàng vừa dứt. Rượu và rượu và rượu... giăng đầy và những cặp mắt lờ đờ vì hơi men. Chỉ Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh là vẫn tỉnh như sáo. Ông mặc bộ com-lê đen, đi lại nhẹ nhàng giữa các dãy bàn, chạm cốc với một người, vỗ vai với một người, rỉ tai với một người... cứ thế, cứ thế... cười. Cười nghiêng ngả.

Lần đầu tiên ông Thanh tổ chức sinh nhật. Lần đầu tiên thị trấn Linh Giang có người tổ chức sinh nhật. Xưa nay chẳng ai nghĩ đến cái "trò nhảm nhí" này bao giờ. Nhiều người biết, nhiều người muốn tổ chức, nhưng chưa ai dám, sợ bị qui là phú quý sinh lễ nghĩa. Nhất là trong những năm đầu của "thời kỳ quá độ", nhân dân lao động đang đổ mồ hôi sôi nước mắt xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, cái "trò nhảm nhí" này lại được coi là rất nhảm nhí, sặc mùi tư sản thực dân. Ông Thanh không nghĩ vậy, có điều ông cũng chẳng thú gì lắm trò này. Ông cho rằng, cuộc đời đã quá bận rộn với các sinh nhật lớn, các ngày kỷ niệm lớn... Bây giờ không dưng lại bắt mọi người phải nhớ đến cái ngày "lòi mắt chuột" của bí thư Huyện ủy quèn, là ông. Lại thêm xung quanh ông chẳng ai kỷ niệm ngày sinh tháng đẻ của mình, người ta chỉ cố hoàn thành việc phụng thờ người chết đã mệt mỏi lắm rồi, bây giờ lại phụng thờ chính mình, chính những người đang sống nhăn răng quanh mình... Hà, nghe buồn cười chết đi được! Vậy nên ông chẳng thiết đến cái trò này, thậm chí nhớ đến ngày mình sinh ra ông cũng cảm thấy vô duyên. Công việc này chỉ dành cho khi ngồi ghi lý lịch, làm hộ khẩu... Thế thôi. Còn lại, phải quên ngay, nếu không, có người sẽ qui cho ông là cá nhân chủ nghĩa.

Hôm hai vợ chồng Trần Hới đến chơi nhà, mời ông dự lễ cưới. Nói chuyện tào lao một lát, Trần Hới hỏi:
- Năm nay chú có tổ chức sinh nhật không?
- Sinh nhật nào? - Ông ngớ ra.
Trần Hới bình thản nói:
- Chú sinh ngày mười bảy tháng Bảy năm 1909, tức là ngày mồng một tháng Sáu năm Kỷ Dậu. Năm nay là năm Giáp Thìn, tức chú chẵn 55 tuổi.
- Ờ nhỉ! - Ông Thanh ngửa người ra thành ghế vui vẻ: - Gớm, anh mới quen con gái ông bạn tôi có vài tháng mà đã nhớ ngày sinh tháng đẻ của tôi.
Cô giáo Cam nói, giọng tươi rói:
- Thế là chỉ còn hai ngày nữa, sau đám cưới bọn cháu là đến lượt chú... Bọn cháu được ăn kẹo...
Ông Thanh xua tay, cười:
- Nói vậy là... nói vậy chứ tổ chức làm cái gì, nhiêu khê lắm.
- Ấy! Bọn cháu lo hết! - Trần Hới kêu to: - Bọn cháu biết hoàn cảnh của chú. Nhà chỉ có em Hoàng, không lo được. Bọn cháu sẽ lo chu tất. Chú cứ coi bọn cháu như con cái của chú.
Ông Thanh lắc đầu:
- Không, nhiêu khê đằng khắc kia...
Trần Hới hiểu ngay ý ông nói:
- Trước khi đến đây, ba cháu có nói: "Bọn con thử gợi ý xem bác Thanh có nên tổ chức sinh nhật không?". Cháu nghĩ: sao lại không nhỉ? Chúng ta đang xây dựng nếp sống mới trên toàn xã hội, tổ chức sinh nhật là một công việc của nếp sống đó. Lâu nay chúng ta cứ điếu phúng người chết, giỗ chạp ma chay... đấy là mê tín, đấy là nếp sống cũ cần phải loại bỏ. Chú phải làm, làm đầu tiên, cũng là cách biểu hiện tư tưởng mới của chú, con chim đầu đàn của huyện.
- Làm thì làm! - Ông Thanh đập khẽ tay xuống bàn, cười to: - Thử làm con chim đầu đàn cái xem sao! Kha kha! ...
Nói thế, cười thế cho vui chứ ông không định thế. Sáng sau ông quên mất. Mãi đến chiều hôm nay, khi tan cuộc họp thường vụ, ông Lanh (Phó bí thư huyện ủy kiêm Chủ tịch huyện) đứng lên:
- Tối nay mời anh em ta đến nhà anh Thanh nhé. Hôm nay là ngày sinh nhật của anh Thanh.
- Ủa! - Ông Thanh tròn mắt: - Ai bảo anh thế? Tôi có tổ chức đâu...
Ông Lanh cười:
- Xong hết rồi, cứ yên tâm. Thằng Hới nhà tôi đã lo chu tất.
Quả thế thật. Bây giờ ông chỉ việc bận bộ com-lê đen vào, thế là xong. Vợ chồng Trần Hới đã lo đủ: đủ rượu, đủ thức ăn ngon và đủ khách. Ông chỉ việc mời thêm Họa sĩ Tư nữa là được, nhưng giờ này Họa sĩ Tư vẫn chưa đến. Tất cả đang vào cuộc. Rượu và rượu và rượu... giăng đầy và những cặp mắt lờ đờ vì hơi men.
Bỉ ngồi ở dãy bàn thứ hai, chùi mép đứng dậy:
- Thưa anh Thanh, Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy...
Ông Thanh vui vẻ cắt ngang:
- Này, ở đây có ai không biết tôi là Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy không nhỉ? Vậy thì giới thiệu làm gì ông Bỉ ơi!
Bỉ cười:
- Vâng! Vâng! Là em... tức là em... nó quen mồm. Có nghĩa là em muốn nói thế này anh Thanh ạ. Em muốn nói thế này, e hèm, thưa các anh trong thường vụ... Chết, em lại quen mồm...
Tất cả cười ra. Trần Hới ngồi cạnh ông Lanh, rỉ tai bố vợ:
- Thằng ấy nói "kháy" đấy, ba!
Ông Lanh gật gù:
- Nói "kháy" là bản chất của bọn văn nghệ.
- Phải trị ba ạ! - Trần Hới thì thầm.
- Ờ, cũng phải từ từ. Trị bọn này phức tạp lắm...
Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy nuốt vội miếng thịt bò chấm nước mắm, không kịp chùi mép, vùng đứng dậy nói chen ngang Bỉ, giọng đã lè nhè:
- Thưa anh Thanh, anh Lanh... Thưa các anh chị. Được sự giáo dục của anh Thanh và anh Lanh cùng bác Thìn kính mến, tụi em ở dưới cơ sở là cứ sáng mắt ra. Trước đây nghe nói: "ai thắng ai" cứ lơ mơ. "Ai thắng ai" là cái quái gì nhỉ. "Ai" rồi lại thắng "ai", hơ, nghe buồn cười quá! Thưa anh Thanh, anh Lanh cùng các anh chị! Em bây giờ rõ lắm! Em là em cùng với các đồng chí trong thường vụ Đảng ủy thị trấn quyết ra tay. Chẳng nhẽ mỗi chuyện "ai thắng ai" mà lâu thế. Ở đâu không biết, chứ thị trấn này chỉ một năm nữa là biết rõ "ai thắng ai" cho mà xem!
- Hoan hô!
Tiếng hoan hô ầm ầm.
Cốc! Tách!... Cốc! Tách!... Cốc! Tách!... Cho tới khuya. Đang vui, đang tranh nhau nói, phì cả nước bọt vào nhau, về vấn đề "ai thắng ai" bỗng mọi người giật mình: Có tiếng đá rơi xuống mái ngói, mỗi lúc một nhiều, tới tấp.
- Thằng nào ném đá! - Chủ tịch thị trấn xắn tay áo xăm xăm bước ra.
- Thằng nào ném đá vào nhà Bí thư huyện ủy! Ông là ông gô cổ! - Chủ tịch thị trấn bước nhanh ra ngõ.
- Anh Thanh ơi là anh Thanh ơi! Em yêu chủ nghĩa xã hội lắm anh Thanh ạ. Đứa nào chống lại chủ nghĩa xã hội là em ném đá bỏ mẹ nó đi!
Họa sĩ đứng trước ngõ nhà ông Thanh gào to. Vừa gào, Họa sĩ vừa nhặt những hòn đá bằng nắm tay ném lia lịa vào nhà.
- Này, anh kia! Làm cái trò gì thế hả? - Chủ tịch thị trấn gầm lên.
Họa sĩ Tư dừng lại, đột nhiên cười to, chạy đến ôm chầm lấy ông Huy.
- Ối giời ơi, bác Huy! Em tưởng là ai... Bác Huy ơi bác Huy, em yêu Chủ nghĩa Xã hội lắm. Trong nhà có đứa nào chống lại Chủ nghĩa Xã hội thì bác cứ để đấy cho em. Em là em... ném đã vỡ mặt! Bác Huy ơi, bác Huy... cuộc đấu tranh "ai thắng ai" gay go lắm bác Huy ạ. Em hiểu rồi, không ném đá không thắng nổi đâu.
Ông Huy đứng trơ ra, không biết làm gì. Đang ở thế tiến công bỗng chốc bị tiến công, ông lúng túng như gà mắc tóc. Ông chỉ còn biết cố giẫy hai chân mình ra khỏi "vòng ôm tha thiết" của Họa sĩ.
Đám đông trong nhà Bí thư huyện ủy đã giải tán. Họ xô cả ra ngõ.
- Gô cổ nó lại! - Một người nói.
- Tôi sợ mấy thằng văn nghệ sĩ lắm, chúng nó nói một lời mà lắm nghĩa, nguy hiểm lắm. - Một người khác nói.
Bỉ lách đám đông đi ra, nom thấy Họa sĩ Tư đang ôm đầu gối ông Huy, chậc lưỡi: "Mẹ, thằng này táo gan thật!", rồi vội vàng lật cánh chuồn thẳng.
Đám đông không ai chịu rời Họa sĩ, mỗi người một câu đòi "dứt điểm" ngay với Họa sĩ.
- Còn để nó ở huyện nhà, nhất định có ngày nó làm xấu uy tín của Đảng cho mà xem!
Đám đông lao xao.
Bí thư huyện ủy đi ra, ông nhìn vào đám đông một lượt, từ tốn nói:
- Các anh về đi, để Họa sĩ đó cho tôi.
Ông quay lại, gọi to:
- Hoàng! Đem chú Tư vào nhà.
Mọi người lẳng lặng giải tán.
             


   Vợ chồng Trần Hới đi cạnh ông Lanh.
Trần Hới hỏi ông Lanh:
- Hắn là ai, ba?
- Một họa sĩ ở tỉnh về nghỉ hưu ở thị trấn.
- Hắn ăn nói như một thằng phản động. - Trần Hới bình luận.
Ông Lanh gật gù:
- Ờ, phản động quá còn gì!
- Không ai làm gì hắn cả, ba?
- Ờ, cũng phải từ từ.
Trần Hới thở dài:
- Việc gì cũng từ từ, con sợ...
Ông Lanh vỗ vai Trần Hới:
- Đấy là vấn đề tế nhị. Với thằng ấy thì chỉ nửa giờ là xong. Có điều, hắn lại thân ông Thanh.
- Thế à? - Trần Hới kêu lên.
- Đấy! Phức tạp lắm! Phức tạp lắm! Mai mốt lên huyện làm việc con sẽ thấy.
Trần Hới quay lại phía vợ:
- Đấy! Ba cho anh lên huyện đoàn rồi đấy!
Cam dài giọng:
- Ba đã hứa với em từ lâu rồi!
Trần Hới cầm tay Cam "bấm" một cái. Hai người dừng lại. Anh ôm ghì Cam hôn dài lên cái mặt tròn phẹt của vợ, thầm thì "Cám ơn em. Bao giờ em cũng là vợ quý của anh". Cam ứa nước mắt, bao giờ gặp cái hôn của Trần Hới cô cũng ứa nước mắt.
Ông Lanh đi trước, nghĩ thầm: "Mẹ, thanh niên bây giờ sướng thật, hôn hít khắp nơi. Chẳng bù cho cái thời mình còn trẻ, cứ động phải cái lông tơ của đàn bà là bị "cạo" đến trắng xương!".
Lúc này đã một giờ sáng.



Lúc này đã một giờ sáng.
Họa sĩ được Hoàng dắt vào nhà đang ôm cột nhà thở dốc, tóc rũ xuống, mặt xanh tái như người vừa qua cơn sốt rét.
- Vào uống nước đã!
Ông Thanh ra hiệu với Họa sĩ, vui vẻ lấy ấm xốc bã chè, pha chè mới. Họa sĩ không tiến thêm bước nào, cứ thế nói, giọng như kẻ sắp chết.
- Anh Thanh này, anh hãy nói cho tôi rằng thì là... Tôi sẽ sống như thế nào. Ví dụ như là...
- Ô kìa, vào uống nước đã. Gì mà cứ lầm rầm ngoài hiên thế.
Ông đến, gỡ tay Họa sĩ ra khỏi cột nhà, dìu đến bên bàn nước.
- Khỏi cần, anh Thanh. Anh cứ ngồi, tôi cứ đứng. Nhiệm vụ của anh là ngồi, ngồi cho đúng ghế...
- Lảm nhảm cái gì thế? Vào uống nước đã! - Ông cười hề hề, lôi đại Họa sĩ vào bàn trà, ấn xuống ghế. - Đấy, bây giờ muốn nói gì thì nói. Tửu lượng hơi nhiều phải không?
- Hơi nhiều nhưng không say đâu, anh Thanh. Tôi không lảm nhảm đâu, anh Thanh. Tôi hỏi nghiêm túc đấy, anh Thanh. Ví dụ như, tôi sẽ sống như ai, anh Thanh. Như anh, như anh của tôi hay như tôi, anh Thanh?
- Hà, gay đấy. Quá nửa đời người rồi mới đi hỏi mình sẽ sống ra sao. Thằng Hoàng của tôi nó cũng không hỏi tôi như thế đâu nhé!
- Nó không hỏi thì tôi hỏi, anh Thanh. Cái số mạng của tôi nó khốn nạn hay nghề của tôi nó khốn nạn? Anh trả lời đi, anh Thanh. Bí thư huyện ủy thì cái mả mẹ gì mà chẳng biết, anh Thanh...
Ông Thanh phì cười, biết Họa sĩ quá say, ông không nói thêm gì nữa, rót nước uống một mình. Họa sĩ hỏi đi hỏi lại câu hỏi ấy. Cứ "anh Thanh", "anh Thanh"... cho đến lúc nghẹo cổ lịm đi trên ghế tựa dài nhà Hoàng.
Hoàng đứng tựa vào cái tủ lớn theo dõi thái độ của ba mình. Có cái gì như là sự khờ khạo và ngớ ngẩn khi ba anh đối diện với Họa sĩ Tư. Không phải lần này, nhiều lần trước đó cũng vậy. Mỗi bận Họa sĩ bắt ông phải trả lời một câu hỏi nào đó là ông lại xoa xoa tay, nói nói cười cười, đánh trống lảng, cố gắng rút lui trong thế ôn hòa nhất. Ba Hoàng, Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, không phải là bí thư mít đặc (theo cách nói của Họa sĩ Tư). Ông là người có học, thậm chí là người có học nhất trong đội ngũ những cán bộ ngang cấp với ông trong tỉnh. Khắp huyện này không ai có bằng tú tài như ông. Bởi vì ông không phải loại cán bộ mã tấu, gậy tầm vông tham gia cách mạng từ thuở một chữ bẻ đôi không biết. Dân Phan Long (một xã ven thị trấn) còn nhớ như in ông tú tài hai mươi bốn tuổi vừa được dân làng rước về, cờ đèn kèn trống suốt ba mươi chín cây số từ tỉnh lị về quê, được mười tám ngày thì Tổng khởi nghĩa tháng Tám bùng nổ, ông rũ sạch vinh quang mà bao nhiêu tráng đinh trong làng, cả những thư sinh con nhà loại giàu có nhất huyện này nằm mơ cũng không thấy, để xắn quần móng lợn hướng đỉnh Chóp Chài theo cách mạng. Hoàng hiểu ba anh được liệt vào loại người vừa danh lại vừa giá, chứ không phải thuộc loại chỉ có "tấm lòng cộng sản" còn lại tất cả chỉ là một con số không rỗng tuếch. Ông có khả năng phân tích rành mạch và chính xác các sự kiện lịch sử trong nước và thế giới. Napeoléon là kẻ như thế nào, Xtalin là người ra sao, cả Spartacus cũng vậy... rành mạch và rõ ràng như họ là bạn bè thân quen của ông vậy. Nhiều lần ông giảng giải cho Hoàng nghe các giai đoạn của văn học Pháp, Anh, Nga và các trường phái nghệ thuật đang diễn ra trên thế giới. Đôi khi vui miệng, ông còn kể cho Hoàng nhiều giai thoại, chuyện đời tư của các nhà văn, các nghệ sĩ và các nhà khoa học tài ba trên thế giới. Không biết học từ lúc nào mà đầu ông như một thư viện lớn, cần "ô ngăn" nào là ông kéo ra ngay: chính xác và rành mạch. Nhìn vào "thư viện" của ông là Hoàng ngao ngán. Biết bao giờ, có lẽ cần phải hai cuộc đời của Hoàng chập lại mới có được những hiểu biết như ông. Một lần Hoàng hỏi ông:
- Làm thế nào ba biết nhiều như vậy?
Ông cười:
- Học.
Và nói thêm:
- Biết nhiều chỉ thêm đau khổ.
Rồi cười to, cố tình khuất lấp điều ông vừa phát thành tiếng. Ông thực sự có năng khiếu về sự cười. Bất kỳ lúc nào cũng có thể cất tiếng cười "ha ha ha" đầy sảng khoái. Có một điều gì đè nặng trong lòng, nó làm cho ông hoặc khó chịu hoặc sợ hãi, khiến ít khi ông được thoải mái. Ông có hai đời sống. Một đời sống giả tạo với mọi người: luôn luôn nói cười vui vẻ và yêu đời như mọi kẻ thành đạt vẫn yêu đời. Một đời sống thực, đầy chán nản, buồn bực, ưu tư và lạnh lẽo khi một mình ông với cái bóng của mình. Như lúc này chẳng hạn, ông đi lại giữa những khoảng trống của ngôi nhà năm gian, tay bóp trán, mặt nhăn nhó như người mắc bệnh loét dạ dày. Thỉnh thoảng ông ngước nhìn Họa sĩ Tư đang nằm còng queo trên chiếc ghế dài, khẽ thở dài.
Hoàng chỉ nhìn thấy vẻ chán chường biểu lộ trên gương mặt của ông chứ chưa đủ mẫn cảm để nhận biết trên đó còn ẩn náu nỗi đau của một người muốn sám hối nhưng không dám. Tuổi trẻ chưa nhiều khả năng lưu trữ các nỗi đau, một lát sau Hoàng lịm đi trong tư thế nửa nằm nửa ngồi bên chiếc tủ lớn. Chỉ còn lại ông Thanh với đống chai lọ, chén bát ngổn ngang, mấy cái đèn măng-sông chói sáng, mấy chục lọ hoa hồng chỏng chơ, vô duyên giữa đống giò, chả, bún bánh...
Cuộc vui đã chấm dứt. Cuộc vui vô nghĩa đã chấm dứt, chỉ mùi của nó hãy còn, mỗi lúc một ngậy lên đến buồn nôn. "Đời là tiệc, tiệc là tàn ly cốc đổ". Họa sĩ Tư vẫn thường hát thế, và bây giờ ông Thanh vừa đi vừa lẩm nhẩm lại. Ông xoa xoa hai bàn tay, lắc đầu chán ngán... Lại xoa xoa hai bàn tay, lắc đầu chán ngán. Trên kia, trên bàn thờ thâm nghiêm, đôi mắt dịu dàng của vợ ông đang nhìn xuống. Không biết vợ ông đang nhìn xuống ông hay nhìn xuống Họa sĩ Tư. Ông mỉm cười: "Ờ nhỉ, không biết nhìn xuống ai..."
- "Thời ấy đã qua rồi... Bây giờ nhìn xuống ai mà chẳng được..."
- "Cái thời khốn kiếp của mình. Tại sao thời ấy mình lại bẩn thỉu như vậy nhỉ?..."
Có một tiếng cười bỗng vang lên trong ký ức xa vời của ông. Rõ ràng thời đó ông đã chơi một trò đểu với Họa sĩ. Chính ông đã vu cáo Họa sĩ, qua miệng một người khác, về các hành động được quy là "dâm ô trụy lạc" của hai người (vợ ông và Họa sĩ), buộc Họa sĩ phải di chuyển công tác, tạo một khoảng hở cần thiết cho ông tấn công quyết liệt vào người đàn bà đẹp nhất chiến khu Chóp Chài, đấy là vợ ông - Mẹ Hoàng về sau. Đó cũng chỉ là trò đểu cổ điển mà những thằng khốn nạn vẫn hay sử dụng để chiếm đoạt tình yêu từ kẻ khác. Cũng như sau này, khi vợ ông ăn nhầm nấm độc mà chết để lại đứa con trai một tuổi giữa rừng già trong lúc ông đi xa, thì người đàn ông bị ông giáng một cú nốc ao bằng trò đê tiện để giành phần thắng về mình trong cuộc ganh đua vì tình, đã bồng ẵm, nuôi nấng đứa bé suốt thời gian khổ nhất cho đến khi được gặp ông, thì cũng là một hành động nghĩa hiệp cổ điển mà những người nhân đức vẫn thường làm.
- "Tất cả vẫn xưa cũ như quả đất, Ha ha ha!..."
Vẫn tiếng cười quái ác vang lên khiến ông giật mình.
- "Ờ nhỉ, tất cả chỉ là những trò cổ điển!..."
Ông xoa xoa hai bàn tay, đầu gật gật... lại xoa xoa hai bàn tay, đầu gật gật...
- "Chỉ riêng việc thẩm định giá trị các trò này, hình như mỗi ngày một mới hơn, lạ lùng hơn, quái ác hơn..."
Suy từ đời ông và đời Họa sĩ Tư thì biết.
Ông, mỗi ngày mỗi "giá trị" hơn. Ngày mỗi ngày ông bình thản bước từ nấc thang giá trị này lên nấc thang giá trị khác, thoải mái nhẹ nhàng cho  đến tận bây giờ. Họa sĩ cứ tụt dần, tụt dần... cho đến lúc trước mắt người đời Họa sĩ chẳng có một không phẩy giá trị nào hết, chỉ là một "thằng hâm", "thằng gàn", "thằng phá hoại"...
Vẫn đôi mắt dịu dàng của vợ ông từ trên bàn thờ thâm nghiêm đang nhìn xuống. Ông thấy lúng túng và xấu hổ, giống một đứa trẻ nhiều tội đang đứng trước đôi mắt dịu hiền của mẹ mình. Thốt nhiên ông muốn khóc, muốn òa khóc nức nở như trẻ nhỏ. Thốt nhiên ông lại giận run lên. Ông muốn đập một cái gì đó cho nó vỡ tan, một cái gì đó thuộc về phần quá khứ nhơ bẩn của ông nhưng không được, chịu! Tất cả đã rắn lại, vì thời gian làm tất cả đã rắn lại, trơ như đá.



Đã bốn giờ sáng. Bỉ chạy xộc vào, tóc tai bù xù, hổn hển nói:
- Mời anh về văn phòng huyện ủy...
- Có chuyện gì thế?
- Điện khẩn của tỉnh ủy: có khả năng địch sẽ đem máy bay oanh tạc vùng chúng ta.
- Thế à?
Ông sững lại chút ít, nhanh chóng chuyển từ một kẻ cô độc, già nua thành một Bí thư huyện ủy giàu kinh nghiệm, một thủ lĩnh tài giỏi của xã hội mười vạn dân, chuẩn bị bước sang cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù ghê gớm nhất hoàn cầu. Ông lạnh lùng nhìn Bỉ, hất hàm hỏi:
- Tỉnh ủy điện lúc mấy giờ?
- Thưa anh, hai giờ ba mươi lăm... Vụ "Vịnh Bắc bộ" đã nổ ra, đài vừa thông báo.
- Tôi có biết. Đi.
Họ đi. Kẻ đi trước người chạy sau, ngụp lặn giữa lớp sương dày tháng Tám năm 1964.



Chương sáu



Bức tranh "Trăng thượng huyền" đã trao tận tay thím Hoa trót lọt, không ai trông thấy. Khi đó vào khoảng chín giờ sáng, nhà chỉ có thím Hoa đang ngồi may. Hoàng đã dò xét trước, biết chắc Thùy Linh giờ này đã đi chợ chuẩn bị làm cơm trưa, Đại úy Thìn tuần này không về - tình hình chiến sự khá căng thẳng đã buộc chân ông ở lại đơn vị. Hoàng lẻn vào. Đúng là lẻn vào thật vì anh không vào cổng chính. Đáng ra cứ xách bức tranh ngang nhiên đi vào cổng chính cũng chẳng sao, nhưng khi đến gần cổng Hoàng bỗng thấy hồi hộp ghê gớm và sợ, một nỗi sợ ngớ ngẩn buộc Hoàng rẽ trái đi vòng lối vườn nhà, lối mà Hoàng đã bò vào xem trộm qua cửa sổ đêm Đại úy Thìn cột dính lưng Họa sĩ Tư và thím Hoa.
- Thím!
Hoàng đứng sau lưng thím bất ngờ gọi - Dọa một chút cho vui. - Thím Hoa giật bắn người, quay vụt lại:
- Ối... Ma bắt thằng này! Làm thím hết hồn. Đi vào lối nào thế, cháu?
Hoàng cười:
- Đi vào lối mà bọn ăn trộm sẽ vào nhà thím một ngày không xa... Chà, nhà "quân sự" mà gác xếch sơ hở quá!
Không chú ý lắm câu nói đùa khá nhạt của Hoàng, thím Hoa dán mắt vào cái mà anh đang cầm trên tay: bức tranh được cuộn tròn, bọc kín giấy báo.
- Cái gì thế?... - Thím rụt rè hỏi.
Hoàng không trả lời, đưa bức tranh cho thím. Thím đỡ lấy, lập cập tháo gỡ giây buộc.
- Tranh hả? Đúng là tranh không?
Hoàng cố tình không trả lời, mọi sự trả lời đều thừa. Anh chú ý quan sát thím Hoa. - "Xem tuổi già họ yêu nhau ra làm sao".
Bức tranh đã được thím giăng rộng. Thím ngồi lặng trước bức tranh, mặt tái đi. Mười phút sau, thím ngẩng lên, môi run run:
- Chú Tư bảo cháu đưa đến phải không?
- Vâng. Chú ấy dặn thím giấu đi.
Thím nhìn Hoàng, ngơ ngác như một học trò đần độn trước lời giải thích đơn giản của thầy giáo. Hoàng nhắc lại, thím vẫn lơ ngớ, chưa hiểu ra làm sao.
- Chú Tư bảo cháu đưa đến đây phải không?
- Vâng.
- Thế rồi cháu đưa đến đây?
- Vâng.
- Thế rồi... chú ấy bảo thế nào nhỉ?... Cất đi phải không?
- Vâng, chú ấy dặn thế.
- Thế à? Cất đi à?...
Thím đưa tay run rẩy lần dò khắp bức tranh, cố phát hiện xem còn gì đằng sau đó nữa không. Không thấy gì, tất nhiên. Thím lại ngước lên, ngơ ngác.
- Thế rồi... chú Tư có dặn gì nữa không?
- Không. Chú ấy chỉ dặn thím xem xong thì cất đi ngay.
- Thế à? Không dặn gì nữa à?
- Vâng.
- Cất đi chứ gì... đúng không cháu?
Sốt ruột quá Hoàng kêu lên:
- Khổ quá, cháu đã nói rồi mà thím cứ hỏi mãi!
Thím Hoa sực tỉnh, đứng ngớ ra một chút, rồi uể oải tiến đến, đặt tay lên vai Hoàng, thì thầm:
- Xin lỗi cháu. Tại vì bất ngờ quá cháu ạ. - Ngẫm nghĩ một lát, thím lại thì thầm. - Cháu có hiểu thím không Hoàng?
- Hiểu cái gì ạ?
- Là hiểu thím ấy... ví dụ như là có khinh thím không?
Hoàng gãi đầu:
- Cháu còn con nít. Chú Tư bảo cháu đưa cho thím thì cháu đưa, chứ cháu có nghĩ ngợi gì đâu.
Thím lắc đầu, mắt chớp chớp. Hoàng rời thím, đến chiếc chõng tre, ngồi xuống. Thím đi theo, ngồi xuống cạnh.
- Cháu khôn rồi. Thím biết. Trong việc này... cháu có chính kiến của cháu...
- Chuyện gì kia ạ? Cháu chả hiểu gì cả...
Hoàng vờ ngơ ngác nhìn thím. "Thôi đừng vờ nữa!" - đôi mắt thím nhìn Hoàng. "Thím biết quá kỹ rồi, hỏi cháu làm gì?" - đôi mắt Hoàng nhìn thím. "Nhưng thím thích được nghe cháu nói." - "Cháu biết nói gì đây." - "Ờ, có bao nhiêu là chuyện. Ví dụ một lời khuyên của cháu..."
Hoàng cúi đầu, buồn rầu nói:
- Thím muốn biết cháu nói gì phải không? Cháu nói thế này nhé! Thùy Linh rất đau khổ. Nếu câu chuyện của thím và chú Tư tiếp tục... thì cô ấy sẽ chết được. Cô ấy chưa chịu được đau khổ... cháu biết cô ấy chưa chịu được đau khổ.
Hoàng ngừng lại. Thím Hoa nín thở chờ đợi. Thím không ngờ một chú bé mới lớn lại nói năng nghiêm chỉnh đến thế. "Như người lớn." - Thím nghĩ - "Trẻ con bây giờ thật kinh không".
Hoàng tiếp tục, anh biết thím đang đợi anh tiếp tục:
- Còn cháu, cháu chả giận chả khinh gì hết... Nhưng thú thực cháu không hiểu gì hết, cháu sợ... Cháu vừa khâm phục vừa ghê tởm. Vì sao như vậy thì cháu không biết. Không biết thật chứ không phải cháu giả vờ...
- Ờ...
Thím Hoa úp hai bàn tay lên mặt, gục xuống. Hai bờ vai thím rung rung. Thím khóc thầm. Nước mắt lọt qua kẽ tay rơi từng giọt một. Hoàng ngồi im thêm một vài phút nữa, không nghe thím nói gì thêm, bèn chống gối đứng dậy.
- Thôi, cháu về đây...
- Ấy, khoan...
Thím giật mình đứng bật dậy, vội vàng kéo áo Hoàng:
- Ngồi với thím thêm ít nữa, cháu! Thím... thím sẽ trình bày... thật, thím sẽ trình bày...
Hoàng ngồi lại, hồi hộp chờ đợi thím Hoa sẽ tiết lộ gì với anh về cuộc tình nguy hiểm của thím. Thím rót một cốc nước đầy, tu sạch. Dằn mạnh cốc xuống bàn, thím ngước lên. Toát ra trên gương mặt đầm đìa nước mắt của thím vẻ kiêu hãnh của những người đàn bà quyền quý luôn sợ bị sỉ nhục. Không nhìn Hoàng, thím nói, giọng đanh lại, độc ác và cay nghiệt.
- Cháu có biết vì sao thím lại như này không? Không biết chứ gì? Đúng thế. Không ai có thể biết, không ai cả! - Thím rít lên thở hồng hộc. - Không ai biết bởi người đời, thím muốn nói cái lũ người đời khốn nạn ấy, luôn luôn làm rối lên trong những việc đơn giản nhất. Tức là gì? - Thím đập tay xuống bàn. - Tức là chúng nó sợ phức tạp, sợ rắc rối nhưng lại nghi ngờ tất cả những gì dễ hiểu, đơn giản. Nghịch lý, nghịch lý ghê tởm. - Thím ngừng ngắn, hạ giọng. - Đơn giản thế này thôi: thím hát một câu: tư sản! Ngâm thơ một bài: tư sản! May cái váy ngủ cho thoáng: tư sản. Không, không phải như thế. - Thím lắc đầu, bối rối tìm từ diễn đạt. - Như thế nào nhỉ? À... Tất cả những gì thím biết được, đọc được, nghe được, thấy được mà thích thú là tư sản tất cháu ơi! - Thím thay đổi sắc mặt, từ kiêu hãnh, khinh khi sang một vẻ gì đó mà Hoàng không biết được. Chỉ biết gương mặt thím nửa thì căng lên, đỏ ửng; nửa thì nhăn nhúm, méo xệch. - À quên, như thế này nữa chứ; Thùy Linh cũng vậy cháu ạ. Bao nhiêu đôi guốc cao gót thím sắm cho nó, bị chẻ sạch. Cháu ơi, tất cả cái gì chế độ cũ để lại đều thối nát, bẩn thỉu... Chỉ có chế độ mới là sạch sẽ thơm tho. Ông ấy nói như vậy đấy. Ông ấy là ai? Tức là chồng thím. - Thím bắt đầu mếu máo, vừa nói vừa khóc. - Ông ấy giáo dục thím đủ điều: ăn, uống, nói, cười, vui chơi, đi đứng... nhất nhất phải đứng trên quan điểm giai cấp vô sản. Ối chao ôi, cả ngủ nữa cháu ạ. Ngủ cũng phải như thế, nhất cử nhất động, răm rắp... răm rắp... Cháu ơi người ta nói đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản chứ có ai nói nằm trên quan điểm giai cấp vô sản đâu cháu! Hu hu hu...
Thím Hoa khóc rống lên. Vật vã. Lăn xả lên giường gào thét. Hoàng lẳng lặng rút lui. Sờ lên trán thấy mồ hôi dầm dề...


                                         *
                                        *          *



Thị trấn Linh Giang nhận được hai tin quan trọng làm bùng nổ hàng loạt các cuộc "tọa đàm" râm ran khắp thị trấn. Đó là "sự kiện vịnh Bắc bộ" khởi đầu một cuộc chiến tranh từ trên trời rơi xuống và sự kiện Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh say rượu tại quán thịt chó Cule.
"Sự kiện vịnh Bắc bộ" khỏi cần nhắc đến vì nó được nhắc đến trên nhiều sách báo và vì sự xôn xao của dân thị trấn cũng giống sự xôn xao ở mọi nơi thời này. Còn việc bí thư huyện ủy say rượu thì...
Đại úy Thìn nói:
- Bí thư huyện ủy say rượu, thật kinh khủng. Còn gì là thanh danh của một người đứng đầu huyện này? Vai trò người Đảng viên cộng sản để đâu?
Chủ tịch thị trấn Lê Đức Huy gật gù:
- Mất uy tín! Mất uy tín! Thật chẳng còn gì là thanh danh.
Bác Cả Rí cầm xâu lươn vòng vòng khắp thị trấn, dừng lại ở các đám đông đang bàn tán, vểnh tai lên nghe, lại đi. Thỉnh thoảng bác nói chõ vào:
- Toàn Đảng toàn dân say rượu! Tôi dám chắc như vậy, không say rượu thì say gì, hả? Mẹ, rượu đắt bỏ bố, uống mà không say là ngu, vứt tiền qua cửa sổ!
Nơi khác, bác lại nói:
- Ai say rượu cũng được tất, trừ bác Thanh. Bác Thanh mà say thì còn ai để xây dựng Chủ nghĩa Xã hội! Nguy, vận nước lâm nguy!
Riêng Bỉ cứ tủm tỉm cười. Ai hỏi gì cũng tủm tỉm cười không nói gì. Trần Hới trầm tĩnh hơn, phát biểu sự kiện này, anh cân nhắc khá kỹ lưỡng, gần như đếm từng chữ một.
- Chúng tôi thấy vấn đề này cần phải được đem ra thảo luận trong Đảng bộ, bởi vì nó động đến một vấn đề lớn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. Đó là sự sa sút nghiêm trọng ý chí tiến công cách mạng của người Đảng viên cộng sản. Thêm vào đó, nó chứng tỏ sự tha hóa vô bờ bến của bác Thanh. Vấn đề là tìm cho ra nguyên nhân dẫn đến sự sa sút này.
Bỉ tủm tỉm cười, luôn luôn tủm tỉm cười. "Đòn thứ nhất của Trần Hới", anh nghĩ. Nghĩ xong lại tủm tỉm cười, không nói gì. Cách đó mấy hôm, đi ngang qua văn phòng ủy ban, Bỉ nghe mấy chị em văn thư bàn tán về việc Trần Hới được "nhấc" lên chứ Phó Bí thư huyện đoàn, anh xoa xoa tay nói một mình:
- Mẹ khỉ! Tay này giỏi đổi chác thật.
Ai nghe cũng không hiểu Bỉ định nói gì. Thường thì Bỉ chỉ nói lấp lửng rồi cười, toét miệng vui vẻ như chẳng có gì quan trọng cả. Nhưng nếu ai chịu khó nghĩ một chút đều hiểu Bỉ đang nói về cuộc đổi chác thông minh của Trần Hới: ông Lanh "ném" đứa con gái xấu xí của mình cho Trần Hới, một anh chàng đẹp trai có một không hai ở thị trấn này, và Trần Hới đã đón nhận khá vui vẻ. Thế đấy! Vậy nghĩa là thế nào? Nghĩa là bây giờ Trần Hới đã nhảy lên chức vụ mới, cũng chưa thơm tho gì cho lắm nhưng cũng là chức vụ khó kiếm. Trong thời buổi "người nhiều ghế ít" này, cái ghế ấy chẳng phải ai cũng kiếm được đâu! Ấy là Bỉ nghĩ thế, nghĩ thế chứ chẳng bao giờ nói thế. Bỉ chỉ tủm tỉm cười, dạ ran mỗi khi Trần Hới gọi. Nói chung cán bộ nào trong Ủy ban huyện gọi, Bỉ cũng dạ ran. Anh hiểu, một cách sâu sắc, rằng Phòng Văn hóa Thông tin của anh là phòng phục vụ chính trị các ngành khác, các ban phòng khác. Vậy ai gọi cũng phải "dạ" chứ sao?
- Ối giời ơi, tôi chóng mặt quá!
Cule kêu toáng lên khi Bỉ bước vào quán.
- Cái gì đấy? - Bỉ hỏi.
- Dồi chứ? - Cule hỏi lại.
- Dồi, lần này thì dồi. Dồi cho chết mẹ đi chứ bẩn lắm! - Bỉ khoát tay nói như quát.
- Tốt rồi! - Cule vỗ tay, bước nhanh vào trong nhà trong, nói với ra: - Ối giời ơi, tôi chóng mặt quá!
Bỉ chùi mồ hôi trán, ngồi gật gù một mình. Cule bưng đĩa dồi "sum sê" bước ra. Bỉ hỏi:
- Bác chóng mặt cớ làm sao?
- Ối giời ơi, thế mà bác cũng hỏi em! Là vì người ta lên chức vù vù mà em thì cao huyết áp...
- Ha ha... được!
Bỉ đập tay xuống bàn, mặt mày rạng rỡ vì tìm được người tâm đắc. Dáng bẽn lẽn, Cule thì thầm:
- Em định nói với bác điều này mà em ngượng quá!
- Tức là sao?
Cule ghé miệng vào tai Bỉ thả từng tiếng một:
- Nếu bác muốn lên chức thì bác cứ hủ hóa đi, đắc sách đấy!
Bỉ cười, văng cả miếng dồi chó xuống bàn. Anh biết Cule đang nói Trần Hới về vụ "học trò cấm cãi" dạo Trần Hới còn là giáo viên dạy toán ở trường cấp ba huyện. Bỉ chùi mép, ghé miệng vào tai Cule:
- Tôi muốn bỏ mẹ nhưng tôi sợ. Tôi nhát lắm. Tôi hủ hóa với vợ tôi mà còn sợ run lên nữa là...
- Bi kịch! Bi kịch đó, bác ơi! Ối giời ơi, em chóng mặt quá.
Cule ôm đầu nhăn nhó, đứng ngóng ra đường. Bỉ vét nốt miếng dồi chó cuối cùng, bước ra quán. Chiều nay trừ Bỉ ra không có khách. Tối đến vẫn không có khách. Đến tám giờ tối thì có người gõ cửa.
Cule ra mở cửa và đứng như trời trồng. Lần đầu tiên Cule thấy lúng túng khi đón một khách nhậu. Ông đứng dịch ra cho khách vào, lặng lẽ quan sắt sắc diện của khách, không hỏi gì nói gì. Bí thư huyện ủy Trần Văn Thanh, "khách nhậu tám giờ tối", lần đầu tiên bước vào quán thịt chó Cule. Ông ngồi xuống, dáng mệt mỏi và chán chường. Cule không hỏi gì nói gì, ông cũng vậy, khoảng mười phút sau ông mới lên tiếng:
- Còn gì nhắm nữa không?
- Thưa có. - Cule lập cập trả lời.
- Gì?
- Thưa đủ cả... thưa ngày nay em ế khách...
- Ờ, chiều nay nóng dữ...
Cuối cùng các món nhậu đã dọn ra. Bí thư huyện ủy nhậu say sưa, ăn một mình uống một mình mà say sưa như đang nhập cuộc với những người tâm đắc. Cule ngồi cạnh chờ sai vặt và chú ý thái độ của ông. Ông uống hết một chai ba rượu, lại gọi thêm một chai bảy...
- Thưa, rượu nặng lắm!
- Tôi biết...
Bí thư huyện ủy khoát tay ra hiệu Cule đừng dính vào cuộc nhậu của ông. Ông cần yên tĩnh, yên tĩnh tuyệt đối. Bây giờ ông chỉ thích đối diện với chai rượu, có vậy thôi. Suốt đời ông đã đối diện với nhiều người, những cuộc đối thoại liên miên làm ông chán nản đến kinh khủng. Ông uống từng chén một, từ từ, từ từ... Lại thêm một chai bảy nữa... Cule thè lưỡi: "Một bợm rượu hảo hạng mà mình không biết trời ạ!" Bí thư huyện ủy không hề để ý đến Cule, cứ uống liên miên, từng chén một, từ từ, từ từ...
- Thưa, rượu nặng lắm!
- Tôi biết...
Bí thư huyện ủy lại khoát tay ra hiệu cho Cule hãy im đi, im hẳn đi. Bởi vì trước mặt ông bây giờ không phải là Cule mà là Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy. Ông phải trả lời thật trung thực ba việc bị chất vấn:
1. Vì sao tự ý thả Họa sĩ Tư ra?
2. Vì sao lại tổ chức ngày sinh nhật rầm rộ?
3. Vì sao bị địch bắt trong quá trình công tác mà không khai báo?
Ông trả lời, rành mạch và cương quyết, rằng Họa sĩ không có tội gì, ít ra cũng theo quan điểm của ông; rằng ngày sinh nhật của ông là không phải do ông tổ chức, người ta tự ý tổ chức và bắt ông nhập cuộc; rằng quả là ông bị địch bắt trong khi đi công tác nhưng chỉ một giờ sau là ông trốn thoát được và vì thế ông không khai báo. Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy cười. Tiếng cười báo cho ông biết ông thật ngây thơ, ông là Bí thư huyện ủy mà thật ngây thơ...
Ông phải làm bản tự kiểm điểm, Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy yêu cầu. Ông gầm lên: "Tôi không làm! Tôi có khuyết điểm gì mà phải kiểm điểm". Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy cười, nhẹ nhàng nói: "Đây là yêu cầu của Thường vụ. Anh làm hay không, tùy anh...".
Và ông hiểu, một cách sâu sắc, rằng chữ "tùy" ấy có sức nặng thế nào. Ông viết, viết một lèo bản tự kiểm điểm dài mười hai trang cốt để làm mờ cái chữ "tùy" ấy đi. Lúc đầu ông viết rất khó khăn, mặt nhăn nhó. Sau, ông viết rất nhanh, vừa viết vừa cười, cười ha hả. Xong, ông vứt bút đi một mạch ra quán thịt chó Cule...
Ông uống, từng chén một, từ từ... cho đến khi ông thấy một Đại úy Thìn bỗng tách ra thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu... Ông hốt hoảng định bỏ chạy, nhưng chưa kịp đứng dậy ông đã ngã nhào xuống đất.
- Cứu! Cứu Bí...!
Cule kêu ầm lên, co cẳng chạy lên huyện ủy. Đến nửa đường, Cule đứng lại ngẫm nghĩ và quay lui. Khi bước vào quán đã thấy Bí thư huyện ủy ngồi dậy, tựa vào vách nói lảm nhảm như mọi kẻ say rượu trên đời vẫn thường nói lảm nhảm. Ngày hôm sau, cả thị trấn Linh Giang ai ai cũng biết việc này.
                                         *
                                       *          *



Có một tiếng nổ dữ dội hất ngược Hoàng trở dậy. Bom! Mấy cột khói đen đang bốc lên cùng với rác rưởi, sắt, đá phía bờ sông Linh.
 Lúc này khoảng mười một giờ trưa.
Thế là chiến tranh đã đến. Một cuộc chiến tranh không ai muốn, đã đến.

Trên trời ầm ầm tiếng máy bay. Không nhìn thấy gì cả, chỉ nghe tiếng rít như xé vải. Tiếng súng trường, đại liên, tiểu liên... rộ lên khắp thị trấn. Dân quân du kích bám trên cái mái nhà, các ngọn cây thi nhau nổ súng. Hoàng chạy vụt ra ngõ. Một đàn bò vài chục con đang cong đuôi chạy thục mạng ra bãi cát sau thị trấn. Lần này Hoàng trông rõ bốn chiếc máy bay (sau này anh biết đó là loại AD6) lừ lừ từ biển vào. Một nhóm dân quân cố đu lên mái nhà bác Cả Rí. Người nào lên được, vội vàng giạng háng đứng bắn liên tiếp từng loạt một. Những người sau ra sức đẩy đít nhau đu lên. Bác Cả Rí nhảy đại lên cột rơm, hai chân kẹp chặt vào cột gỗ làm nồng cho cột rơm, mặt ngửa lên trời, mồm nhai trầu bỏm bẻm, tay phải cầm dùi cui gõ nhịp ba vào cái mâm đồng đang cầm ở tay trái. Có một chiếc AD6 hạ độ cao, sà thấp xuống rất nhanh về phía Ủy ban Nhân dân huyện. Một tốp ba người, không rõ trẻ hay già, ra sức đuổi theo, vừa đuổi vừa bắn. Khi chiếc AD6 bay vọt lên, đùm một đám khói đen thì khắp thị trấn ầm ầm tiếng la hét, tiếng hoan hô, tiếng gõ vào các dụng cụ sắt nhôm... Người ta ngỡ máy bay cháy, nhưng không phải, chiếc máy bay không việc gì sất, nó lật cánh hai ba lần như cố tình chọc tức "các anh hùng chân đất". Đám dân quân đứng trên mái nhà bác Cả Rí vừa bắn vừa chửi. Bắn cũng hung mà chửi cũng dữ. Riêng bác Cả Rí thì vẫn hai chân kẹp chặt vào cột gỗ, miệng nhai trầu bỏm bẻm, cứ nhịp ba nện dùi thẳng cánh vào cái mâm đồng làm cho nó cong lên như một cái bánh đa nướng. Mấy quả bom Mỹ thả hụt, rơi phía bờ sông Linh làm hai đội cứu thương và cứu hỏa chạy toát mồ hôi hột về phía đó. Chẳng việc gì cả, như chó ỉa đùn, chỉ mấy cái hố nông choèn đùn lên sát mép bờ sông. Đội cứu thương ngụy trang đầy mình, nam nữ đều đội mũ vải, bịt khẩu trang. Đội cứu hỏa mặt mày đỏ bừng, ai cũng đội mũ sắt, chân đi ủng. Họ đứng lần chần một chút trước mấy cái hỗ nông choèn kia, xác định chẳng có việc gì phải làm, kéo nhau về, bán tán râm ri.
Chiến tranh diễn ra ở đây chưa đầy hai mươi phút và kết thúc khá vui vẻ: ta không sao, địch cũng chẳng việc gì. Nhưng đấy chỉ là tấn hề tuồng nhẹ nhàng, giáo đầu cho một vở kịch lớn lao sắp mở màn.

                                         *

                                   *                 *

 Chiến tranh diễn ra chưa đầy hai mươi phút và kết thúc khá vui vẻ: Ta không sao. địch cũng chẳng việc gì. Nhưng đấy là tấn hề tuồng nhẹ nhàng, giáo đầu cho một vở kịch lớn lao sắp mở màn.
Hoàng không hình dung nổi được điều này. Anh thấy vui hơn là lo lắng, sợ hãi. Ồ, cái điều mà người đời thì thầm với các bộ mặt nghiêm trọng trong gần một năm nay chỉ là hai mươi phút đầy tính hoạt kê này thôi ư? Nếu vậy thì chẳng có gì phải bàn, chiến tranh cũng chỉ là trò chơi ú tim của thâm thù và cay cú, có vậy thôi. Hoàng thấy khoan khoái, nhẹ nhõm và vui, một niềm vui gần như không lý do cứ râm ran suốt buổi chiều hôm đó.
Đến sẩm tối, Thùy Linh chạy đến nhà Hoàng. Cô xô cửa gài cổng lao vào nhà.
- Ơ kìa, Thùy Linh!
Hoàng kêu lên, đứng ngẩn ra một lát, rồi lao tới. Một tháng trời họ mới gặp nhau, kể từ ngày Đại úy Thìn ra lệnh triệt tiêu các cuộc chơi lớn nhỏ của họ trên bờ sông Linh. Hoàng đỡ hai vai Thùy Linh, rối rít:
- Thùy Linh! Thùy Linh!
Thùy Linh không ngẩng lên, cô buông mình vào ngực Hoàng òa khóc:
- Anh ơi!
Thùy Linh kêu lên hai tiếng đó nhẹ nhàng như không. Đây không phải tiếng gọi lần đầu, cô đã gọi anh như thế giữa lòng sông Linh khi cả hai đều run lên, nóng lạnh vì những cái hôn đầu. Sau đó, cả hai đều ngượng và cảm thấy hình như chưa đến lúc gọi nhau như thế. Sẽ có một ngày, một ngày nào đó hãy còn xa lắm chứ không phải lúc này...
- Anh ơi!
Tiếng gọi ấy đã bật lên khiến Hoàng đứng trơ ra, ngơ ngác không biết làm gì nói gì. Thùy Linh đã gọi Hoàng như thế không phải khi mặt cô đỏ rực vì ngượng ngập và bối rối, nó được bật ra từ một nỗi đau khổ thật lớn chưa kịp nói thành lời. Hoàng dìu Thùy Linh về chiếc ghế đẩu cạnh đấy. Họ đi từng bước chậm chạp, nặng nề. Thùy Linh ngồi xuống ghế, nín khóc. Hoàng hỏi đi hỏi lại cô tại sao lại như thế nhưng cô không trả lời. Tay chống cằm, mắt đầm đìa nước mắt, Thùy Linh nấc khẽ. Hoàng rót đầy một cốc nước sôi để nguội bưng đến đặt vào lòng bàn tay trái buông hờ của Thùy Linh.
- Em uống nước đi.
Hoàng cố gắng sử dụng đại từ nhân xưng này thật thành thạo, cứ như không ấy, dù vẫn thấy sống sượng thế nào, chưa "vào" được. Thùy Linh uống một hơi sạch cốc. Vừa dứt, cô đã chìa cốc ra:
- Cho em thêm cốc nữa!
Hoàng đỡ lấy, nhanh chóng rót đầy cốc nữa cho cô. Lần này Thùy Linh uống từng ngụm, vừa uống vừa ngẫm nghĩ rất lung về điều gì đó. Hoàng đứng lớ ngớ bên cô, không biết nên làm gì lúc này là hợp lý nhất. Bụng nghĩ thầm: "Hay Đại úy bị việc gì rồi. Có thể bên kia sông, nơi đơn vị ông đóng quân, địch đánh phá ác liệt...". Anh chực hỏi điều này mấy lần nhưng không dám, sợ nhỡ không đúng lại bị trách là "gở miệng", nên thôi.
- Lúc có máy bay, em đi đâu? - Hoàng hỏi.
- Em ở nhà. - Thùy Linh trả lời.
- Thế... - Hoàng cố nghĩ thêm một câu hỏi nữa. - Thế em không xuống hầm à?
- Không.
- Thế... - Lần này bí quá, Hoàng hỏi liều. - Thế ba có việc gì không, em?
Thùy Linh khẽ lắc đầu. Cô đưa cốc nước cho Hoàng, ra hiệu cất đi. Hoàng làm theo, xong, lại lớ ngớ bên cô.
- Thế... em có thấy máy bay... không?
Thùy Linh từ từ ngước lên, mắt dại đi. Từ trong hố mắt xanh non của cô đôi hàng nước mắt từ từ lăn.
- Anh! Anh Hoàng ơi! Mẹ em trốn nhà đi rồi!
- Sao? - Hoàng giật mình. - Cái gì? Trốn là sao?
Thùy Linh đứng vụt dậy, hai tay túm lấy ngực áo Hoàng day day:
- Trốn rồi! Trốn cùng với chú Tư! Anh ơi... trốn cùng với Họa sĩ Tư rồi!

Tiếng cuối cùng Thùy Linh hét lên ghê rợn, cô rơi xuống thành ghế mềm nhũn. Không một tiếng nấc.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét