Tản văn
1.
Sắp đến ngày hội trường, bạn bè
gọi điện réo suốt ngày, nói mày có về
không, hả, mày có về không. Mình cũng muốn về
lắm nhưng phần thì kẹt cái dự án nho nhỏ phải cố làm cho xong, phần thì thân
già da cóc, đi lại khó khăn nên cứ chần chừ mãi. Bà xã, cũng là học sinh cũ nhà
trường, chờ mình không được đã bỏ về trước. Thứ 7 hội trường thì 4 giờ chiều
thứ 6 thằng Đại Phúc gọi điện, nói mười năm hội trường một lần, mày không về
lần này mười năm sau liệu còn sức lết về nữa không. Khi đó liệu bạn bè còn sống
sót được bao nhiêu, mày muốn gặp đủ cũng chẳng có đâu.
Mình chưa kịp phân bua nó lại bồi thêm, nói
trường không chỉ của mày mà của bốn anh em trai nhà mày, của chính ba mày nữa.
Dứt lời nó dập máy liền, không thèm nói thêm một câu nào nữa. Mình ngồi thừ.
Ừ nhỉ, lâu ngày quá quên mất. Ba mình là một
trong chín thầy cô đầu tiên năm 1962 về đây lập trường*, ông là bí thư
chi bộ, hiệu phó. Bỗng vụt hiện cái thời mình 6 tuổi, vẫn chạy lon ton
theo ba mình đến trường. Và rồi hình ảnh ngày lập trường đầu tiên bỗng
hiện về: ba mình cùng thầy hiệu trưởng Trần Đình Côn dựng nên cái cổng trường
bằng hai cột cây phi lao và tấm biển gỗ xoan “ Trưởng cấp 3 Bắc Quảng
Trạch” viết bằng vôi trắng. Chỉ một thoáng kí ức mỏng manh ấy đã làm mình quyết
định bay về. Máy bay Sài Gòn- Đồng Hới hai ngày một chuyến, may còn đúng một
ghế dự phòng, nhờ ông bạn tích cực can thiệp mình mới về kịp ngày hội trường
vào sáng hôm sau.
Mới đó đã 50 năm, đúng nửa thế kỉ, thật nhanh
quá. Ngồi trên máy bay mình cứ nghĩ vẩn vơ, cả ba mình và thầy Côn đều đã mất,
chín thầy cô ngày đầu lập trường hình như chỉ còn hai thầy, đó là thầy Thành và
thầy Đăng, hai thầy cũng đã già lắm rồi. Chắc chẳng còn ai nhớ những giây phút
dựng cái cổng trường đầu tiên, duy nhất chỉ có mình nhớ, dù khi đó mình chỉ là
chú bé sáu tuổi. Trời phú cho mình trí nhớ về hình rất tốt. Những gì thuộc về
kiến thức mình chẳng nhớ hơn người khác được bao nhiêu, thậm chí kém thua,
nhưng những gì về hình thì mình nhớ tốt đến nỗi chính mình cũng phải ngạc
nhiên.
Mình nhớ lúc mình ba tuổi, buổi sáng
phiên chợ sáu mình được chị Nghĩa dắt ra chợ ăn xôi bắp thế nào; buổi chiều tối
mùa hạ mạ mình đẻ cu Vinh, mình cứ nằng nặc đòi vaò buồng xem mẹ đẻ em làm sao.
Bây giờ kể lại nhiều người chả tin, cho là bịa. Năm mình hai tuổi, nằm võng ăn
đào bị hột đào trôi tuột vào cổ, nghẹt thở sắp chết, may có chị Nghĩa thò tay
móc họng lấy hột đào ra. Chuyện này cả nhà chẳng ai nhớ, cả chị Nghĩa cũng
chẳng nhớ, chỉ đến khi mình nhắc lại chị mới kêu lên, nói đúng rồi, Ua trời
răng thằng ni nhớ hè. Hi hi.
Lại nói về cái lễ dựng cổng trường. Cái lễ
thật đơn giản, sơ sài là đằng khác, nhưng trong con mắt của đứa bé sáu tuổi là
mình nó diễn ra mới lộng lẫy, hoành tráng làm sao. Chín thầy cô đều tập trung ở
cổng trường, tất cả đều mặc áo phin trắng, các thầy mặc quần kaki, các cô mặc
quần phíp, trang phục sang trọng thời đó. Ba mình và thầy Côn nói gì đó,
rồi mỗi người một cột cùng dựng cái cổng trường lên. Cái biển “ Trường cấp 3
Bắc Quảng Trạch” từ dưới đất dần vút thẳng lên cao. Mọi người vỗ tay hoan hô,
thầy Đăng ( hình như thầy Đăng thì phải) cột dây pháo ở lên cổng và đốt. Pháo
nổ, chỉ là dây pháo tép thôi, và năm bảy tiếng vỗ tay sao mà mình thấy
tưng bừng đến thế.
Mình học khóa 1971-1974, nghĩa là mười
năm sau ngày lập trường mình mới có mặt, nhưng kí ức về những năm tháng đầu
tiên của Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch mình không thiếu, có khi còn nhiều hơn
các anh chị học các khóa trước. Suốt cả tuổi thơ mình theo ba mình đến trường.
Thoạt đầu trường đóng ở gần khu Điều Dưỡng, khu vực Bệnh viện huyện bây giờ,
nhà mình cách trường không đầy cây số. Đến 1964, trường đã có ba dãy nhà ngói,
cổng trường được xây cất rất đẹp. Học sinh cấp 3 thích chụp ảnh lấy le với bạn
bè thường chọn cổng trường làm bối cảnh. Tóc chải mượt, vai tựa cổng trường,
tay chống nạnh, mắt nhìn đăm chiêu xa xôi, rất chi là trí thức. Hi hi.
Thời này học sinh cấp 3 rất được trọng
vọng, gọi là đội ngũ trí thức của huyện nhà. Cũng phải thôi, các ông học trường
Pháp có bằng primaire ( lớp 4), diplôme ( lớp 7) còn được gọi là trí thức,
huống hồ là học sinh cấp 3. Là trí thức huyện nhà nên ai nấy ăn mặc đi đứng nói
năng rất đàng hoàng, tuyệt không có chuyện nói tục chửi bậy, đánh nhau lại càng
không. Có ai đó nói năng thất thố lập tức bị mắng ngay, nói trí thức mà ăn nói
thế à. He he, kinh.
Thầy Côn hiệu trưởng được coi là trí
thức lớn nhất huyện nhà. Thầy nghiễm nhiên trở thành “ người của công chúng”,
nhân vật quan trọng số 2 sau bí thư huyện ủy. Có khi bí thư huyện ủy không oách
bằng thầy vì ông chưa học qua lớp 7, dù là lớp 7 bổ túc công nông, bằng văn hóa
cán bộ thời này. Mỗi lần thầy bước ra khỏi cổng trường đi về hướng nào đều được
dân chúng rất để ý, nói câu gì cũng được mọi người bàn tán. Từ trẻ đến già đều
kính cẩn chào thầy. Nhiều người đang đi xe đạp, thấy thầy liền nhảy vội xuống
xe, lật mũ khoanh tay cúi đầu, nói dạ thưa thầy. Tiếng chào rất to vừa tỏ thái
độ kính trọng ngưỡng mộ thầy, vừa để khoe là mình có quen thầy hoặc là
học trò của thầy. Cả hai đều cực kỳ sang trọng, tội gì không khoe, hi hi.
Nhà mình sang lên cũng nhờ thầy, vì đấy là
nhà duy nhất trong Thị trấn được “trí thức lớn nhất huyện nhà” thăm viếng luôn
luôn. Cứ chiều tối sau bữa cơm chiều, thầy đi bộ đến nhà mình, uống nước chè
với ba mình. Cả hai ông đều nghiện chè mạn. Ba mình rất khéo pha chè. Cũng chè
ấy thôi người khác pha nước chè sẫm màu, mùi chè khê khê khen khét, vào tay ba
mình chén chè xanh trong, thơm nức, rất lạ.
Mỗi lần thầy Côn đến nhà uống chè với ba mình
là mình nhảy ra cổng đứng canh không cho đứa con nít nào lai vãng, sợ ồn. Thầy
chỉ uống chè tán gẫu với ba mình thôi nhưng nhà mình và dân quanh xóm đều bảo
là hai thầy đang đàm đạo. Đúng rồi, trí thức lớn ai lại ngồi tán gẫu, đàm đạo
chứ, hi hi. Nhà mình sân rộng, trước cổng có mấy cây xoan to đổ bóng râm mát
nên con nít hay tụ bạ ở đây. Chẳng có ai bảo nhưng mình tự thấy phải đuổi chúng
đi, thầy của các trí thức đang đàm đạo, không thể để cho con nít quấy rầy, hi
hi. Có đứa bị đuổi tức quá mắt trợn tay chỉ, nói thằng ni láo gớm bay, ai nỏ
biết nhà mi quen thầy hiệu trưởng.
Một vài người lớn vẫn hay thập thò ở cổng,
mặt mày nghiêm trọng vẫy mình tới, dúi cho 5 xu, nhờ mình vào xin phép được gặp
thầy dăm ba phút để hỏi chuyện gì đó. Đối với dân Thị trấn, thầy Côn có cái túi
khôn vô tận, ai không biết bất kì chuyện gì cứ hỏi thầy là xong. Một lần anh cu
Kỷ cứ thập thò mãi ở cổng. Mình chạy ra, nói anh muốn hỏi chi thầy thì vô đi.
Anh nói tau sợ, không dám. Mi vô hỏi thầy Côn… răng lại gọi Cu Ba. Gọi Cu Lập
cu Vinh cu Kỷ… chớ ai gọi một nước CNXCH bằng cu, có phải phiên dịch sai không.
Mình chạy vào nói nguyên xi như vậy, thầy Côn cười phì, phun cả nước chè đầy
mặt mình.
Ngày 5/8/1964 là một ngày đáng nhớ, lần đầu
tiên máy bay Mỹ đem bom phá hoại miền Bắc. Thị trấn Ba Đồn bị bom nặng nhất.
Bệnh viện, Khu điều dưỡng, Cửa hàng tổng hợp, hai trường cấp 2, cấp 3 và
hơn trăm nhà dân bị máy bay Mỹ dội bom. Hầu như tất cả các nhà ngói, đa phần là
nhà ngói cấp 4, đều là mục tiêu đánh bom của Mỹ. Trường cấp 3 bị bom đầu tiên.
Một quả bom đánh tan cái cổng trường, hai quả bom khác làm sụp luôn dãy nhà
ngói phía trước. Sân trường bị bốn năm quả bom tấn sâu hoắm, bùn đất đùn lên
từng đống cao. Tan trận bom, chị Nghĩa khóc rú lên, nói bom thả trường cấp 3,
ba mình e chết rồi Lập ơi.
Mình vọt ra khỏi hầm chạy về trường cấp
3. Không thấy ai hết, đang kì nghỉ hè nên trường vắng hoe, may thế. Thầy Côn
bước thấp bước cao mệt mỏi đi từ khu trường ra. Thầy ngồi xuống cầm tay mình,
nói tìm ba phải không. Ba con đi họp trong tỉnh, không có đây. Mình đứng trố
mắt nhìn thầy. Bùn đất bám đầy mặt chưa kịp chùi, gương mặt sáng trưng của thấy
bỗng đen đúa hốc hác lạ thường. Thầy móc túi ra một cái kẹo văn đưa mình,
nói về đi con, máy bay sắp tráo trở lại rồi, về mau lên.
Đó là lần cuối cùng mình gặp thầy, sau đó
thầy vẫn hiệu trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch cho đến năm 1969 nhưng mình không
còn gặp thầy nữa, hoàn toàn không.
Thực sự mình không thích gọi trường cũ của
mình là Trường THPT số 1 Quảng Trạch. Cái tên Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch đã gắn
bó với kỉ niệm của hàng vạn học trò thời khói lửa chiến tranh. Nó còn là niềm
tự hào nữa, thời đó nhắc đến Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch dân
trong ngành giáo dục không ai không biết, nó nổi tiếng chẳng kém gì các trường
cấp 3 Xuân Đỉnh, cấp 2 Bắc Lý cả. “ Học hiệu” Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch rất xứng
đáng được lưu giữ, tại sao lại đổi đi?
Hôm hội trường, mình cùng anh Tri Nguyên đứng
ở cổng trường, ngửa mặt nhìn cái biển Trường THPT số 1 Quảng trạch, anh em
nhìn nhau buồn thiu. Anh Nguyên nói mình dân Thị trấn, nhiều lần về quê đều đi
qua đây, nhìn cái biển thấy ngậm ngùi, giống như nơi đây không còn là trường cũ
của mình nữa.
Anh Tri Nguyên là học sinh khóa 1, cũng
là lứa học sinh đầu tiên của Nhà trường lên đường nhập ngũ. Từ đó về sau
năm nào cũng có một hai đợt tuyển quân, hơn chục lứa tuyển quân có chừng ngàn
học sinh lên đường nhập ngũ chứ không ít. Bao nhiêu người lính học sinh cũ của
Nhà trường trở về sau chiến tranh như anh Nguyên? Chưa ai thống kê nhưng rất
ít, ít hơn rất nhiều những người nằm lại ở chiến trường.
Anh Nguyên học giỏi khét tiếng, học trò nhiều
khóa sau đều biết đến tên anh. Nhà anh ở sát nhà mình. Mình nhớ mãi
cái ngày anh Nguyên đi bộ đội. Đấy là buổi chiều mùa hạ năm 1965. Mình học lớp
2, hôm đó hỏi anh Tường học lớp 5, nói răng người ta nói nước mắt chảy xuôi.
Ạnh cốc đầu mình một phát, nói ngu. Nước mắt không chảy xuôi thì chạy ngược à,
hỏi chi ngu rứa. Mình trương gân cổ lên cãi. Anh lại cốc đầu, nói ngu. Tau đố
mi khóc cho nước mắt chảy ngược được đó. Hi hi tức chết được.
Mình chạy sang nhà anh Nguyên, khi nào gặp
cái gì khó mình đều chạy sang nhà hỏi anh. Anh đang soạn tư trang, ngồi
lẩn thẩn giở từng trang nhật kí. Mình hỏi anh đi mô, anh nói đi bộ đội. Anh
cười rất tươi, tặng mình cái bút máy cũ của anh, nói Lập ở nhà học giỏi nhé.
Mình hỏi anh nhà dột từ nóc, nước mắt chảy xuôi là sao. Ngày thường gặp khi
mình hỏi anh vẫn ôn tồn giảng giải cặn kẽ nhưng ngắn thôi, độ dăm ba phút, hôm
đó anh ngồi nói rất lâu, như là anh đang nói cho chính anh chứ không phải giảng
giải cho mình, nhất là câu “nước mắt chảy xuôi”. Mình ngồi nghe sướng rêm, nhớ
mãi đến giờ.
Tối đó anh Nguyên lên đường, cuộc chia tay
không nước mắt, mọi người cười nói râm ran. Khóc lóc là mất lập trường, không
ai dám. Bác Thông gái, mẹ anh Nguyên, chạy ra sau cột đèn, nấp vào bóng tối
đứng khóc một mình, rồi lại lau khô nước mắt vào đám đông nói cười vui vẻ. Anh
Nguyên đứng trên xe nhoài người xuống bắt tay mình, nói ở nhà học giỏi nghe
Lập. Xe chạy, trong tiếng ồn ào tiễn biệt nhau mình vẫn nghe tiếng anh Nguyên
rất to gần như hét, nói ở nhà học giỏi nghe Lập.
Mặc dù đã ra trường, đã có giấy báo đi
bộ đội, anh Nguyên và lứa học sinh nhập ngũ đầu tiên của Nhà trường vẫn cùng
thầy trò trong trường bốc dở trường lớp, khuân vác gồng ghềnh đưa trường về nơi
sơ tán an toàn. Lúc này máy bay Mỹ càn nát cả tỉnh Quảng Bình. Xe cộ
chẳng có, mọi cơ quan đoàn thể trong huyện đều sơ tán, cơ quan nào tự lo cơ
quan đó, chẳng ai giúp đỡ ai. Thầy trò đều phải khuân vác đi bộ cả chục cây số
dưới nắng lửa và bom đạn, tự đào hầm dựng lớp, tự lo lấy cái ăn chỗ ở, vẫn phải
đảm bảo an toàn tính mạng tuyệt đối cho học sinh, phải khai giảng đúng ngày và
dạy tốt học tốt. Nói mấy câu đơn giản vậy chứ cả một trời gian khổ, bây giờ
nghĩ lại mới thấy rùng mình, không hiểu sao thầy trò trường mình lại có thể làm
những chuyện tày trời như vậy.
Trong khoảng 10 năm trong chiến tranh, từ
Hướng Phương lên Bàu Mây, lên Phù Lưu, về Đông Dương, năm nào cũng xây dựng
trường mới, thầy trò tự lo lấy tất tần tật. Năm nào cũng vậy, nghỉ hè chỉ
khỏang hai chục ngày là tựu trường, kéo nhau lên rừng chặt cây đẵn cột đem về
đục đẽo cưa bào dựng lớp, làm hầm, đóng bàn ghế. Mình biết cưa đục đan tranh
lợp nhà là nhờ 3 năm học cấp 3, cả cày bừa cũng học được từ nhà trường, dân Thị
trấn những chuyện này chưa bao giờ đụng tới.
Nhớ những chuyến lên rừng chặt cây làm nhà.
Những cột nhà to nặng đến thế tụi mình vẫn vác được, chỉ cần nhấc lên được là
cứ thế vác đi bảy tám cây số đường rừng. Con trai ra đến cửa rừng lại
phải quay lại đón con gái. Chẳng ai bắt chuyện đó nhưng mỗi anh thích một “em”,
quay lại gánh vác đỡ cho các “em” là cách tỏ tình hiệu quả nhất. Lắm anh tham,
thích đến hai ba “em”, chạy đi chạy lại hai ba chuyến đón các “em”, mệt bở hơi
tai nảy đom đóm vẫn không dám bỏ “em” nào.
Cái thứ tình con nít ranh, thích thế
thôi chứ được xơ múi gì đâu, có cho cũng chẳng dám. Nhưng doping tình loại này
không gì sánh được. Anh thanh niên choai “ chưa dập bọng cứt” vác cột đi trước,
em thiếu nữ “ chip hôi” chạy theo sau, nói mệt không mệt không, nghỉ đi nghỉ
đi. Lắm khi mệt quá muốn quị, nghe em hỏi sức trai bỗng trỗi dậy, vác cột đi
băng băng, cười hề hề, nói có chi mô có chi mô.
Trường lớp hồi bấy giờ là những cái nhà hầm
nửa chìm nửa nổi, vách tường ken dày những dãy cột to, thông với những cái hầm
kiên cố như hầm tướng Đờ Cát, toàn là sức của đám thanh niên choai dựng nên cả.
Không hiểu sao ngày xưa tụi mình khỏe thế, nhớ lại thật tự hào,
niềm tự hào ứa nước mắt.
Ngày nay dưới 20 vẫn được coi là con nít,
chưa rời được vòng tay bố mẹ. Ngày xưa đến tuổi 15 được coi là thanh niên. Mình
được kết nạp vào Đoàn năm 15 tuổi khi vừa học xong lớp 7. Vào Đoàn được thì làm
việc gì chẳng được. Lên lớp 8, mười sáu tuổi đầu là rời khỏi vòng tay bố mẹ, tự
mang bị gạo, ôm sách vở đến trường, trú ở đấy đến cuối tuần mới quay về nhà lấy
gạo, chẳng bao giờ có chuyện bố mẹ chở đến trường lớp như bây giờ. Cái thời đói
kém, đứa nào khá được nhà phát cho chục lon gạo một tuần, đa phần đều bảy lon
khoai hai lon gạo. Mình nhớ con đường từ làng Pháp Kệ lên làng Đông Dương
chiều chủ nhật từ nhà về trường, từng tốp hàng chục đứa học trò vai khoác
bịch khoai khô, tay xách túi gạo nhỏ vừa đi vừa nghêu ngao hát nhại theo nhạc
hiệu sáu giờ: “ Từng ni gạo, từng ni gạo, từng ni gao… ăn răng cho đủ một
tuần….” Hi hi.
Ăn uống đói kém, lao động sản xuất tối ngày
thế mà học vẫn giỏi. Năm nào tỉ lệ tốt nghiệp cũng cao nhất tỉnh, nhiều
năm tỉ lệ tốt nghiệp được xếp một trong mười trường cao nhất miền Bắc. Nên nhớ
ngày xưa học thật thi thật chứ không phải thứ tỉ lệ tốt nghiệp 100% như bây
giờ. Mình kể chuyện này cho tụi bạn ở Hà Nội, chúng nó chả tin, nói ở cái nơi
sống được còn khó, học giỏi là học thế nào. Là học thế này: Mỗi lớp chỉ
có một bộ sách giáo khoa, đa phần chỉ nghe giảng suông, ghi được chữ gì thì học
chữ đấy. Tối về thắp đèn dầu hạt đỗ nằm tùm hum trong hầm làm bài tập, khói đèn
dầu luynh đen sì cả hai lỗ mũi. Không có giấy, phải lấy giấy cũ ngâm vôi
cho mất chữ đi để viết, phải thay nhau đi tìm mỏ đất trắng làm phấn cho thầy
cô, còn chế tạo cả phấn màu viết vẽ rất đẹp.
Thời đó chỉ có ba ước mơ, một là mơ
không chết bom, hai là mơ học giỏi, ba là mơ đi bộ đội. Chỉ có ba ước mơ ấy
thôi, không có ước mơ thứ tư. Được học càng tốt, được đi bộ đội càng tốt hơn.
Anh Thắng mình tốt nghiệp lớp mười, có giấy tuyển thẳng đi học nước ngoài nhưng
không đi, anh viết đơn bằng máu đòi đi bộ đội cho bằng được. Anh Tường mình học
hết lớp 8 năm 1969, đến ngày khai giảng vào lớp 9 thì nghe tin Bác Hồ mất, anh
bỏ học ngay tức thì, viết đơn xin đi bộ đội. Người ta khuyên anh nên ở lại học,
nhà đã có hai người đi bộ đội rồi nhưng anh không chịu, nói Bác mất rồi, học
mần chi, ẻ vô! Hi hi.
Ngày nhập ngũ, anh giấu mạ mình , chỉ mật báo
cho mình thôi. Mình chạy tắt qua trảng cát rộng về Quảng Long vừa đúng lúc xe
chở anh bắt đầu chuyển bánh. Mình chạy đuổi theo xe, anh đứng trên xe vẫy vẫy,
nói ở nhà học giỏi nghe Lập.
Ba năm sau mình học hết lớp 8 lại tiễn
bạn bè cùng lớp lên đường. Thằng Sơn, Thằng Học, thằng Dũng, thằng Phú, thằng
Tạo,… những chú lính tuổi 17 đứng trên xe tải vẫy vẫy, nói đi Lập nha, ở nhà
học giỏi nha Lập.
Lúc đó lời dặn dò ở nhà học giỏi mới cảm động
làm sao. Chẳng phải như thời của mình, năm 1980 nhập ngũ tại trường Bách Khoa,
đứng trên xe tải vẫy vẫy bạn bè, nói đi nhé, ở nhà học giỏi nhé. Thằng bạn đứng
cạnh mình nhăn mũi cười, nói mày chập mạch à, thân mình lo chả xong còn dám dặn
dò đứa ở nhà học giỏi, hâm!
Hic hic.
3.Mình nhận được email của một người anh học
cùng Trường cấp 3 Bắc Quảng Trạch, trước mình mấy khóa, viết: “Những chuyện Lập
kể trong Thầy trò một thuở thật cảm động. Lập nói
đúng đấy, chúng ta có niềm tự hào ứa nước mắt. Bây giờ nghĩ lại không hiểu vì
sao khổ như thế. Khổ vì bom đạn thì đã đành, nhưng có những cái khổ không
đáng khổ, ví dụ cái thời vừa học vừa làm của anh em mình, thời “phân bò và dầu
tràm” ấy mà. Nào có ai bắt mình phải vửa học vừa làm đâu nhỉ? Anh nhớ là không
ai bắt chúng ta cả, đúng không?”
Mình chẳng biết nói sao với anh ấy cả. Mỗi
thời có lý lẽ riêng của nó. Thời đó học và hành được hiểu là học tập và lao
động, học sinh cấp 3 mà không biết lao động, lười lao động là quân tiểu tư sản,
thuộc tầng lớp ăn bám xã hội. Hơn nữa khi đó Bắc Nam chia cắt, khẩu hiệu “ Giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước” đốt cháy hết thảy tâm can mọi người, từ con
nít đến người lớn. Có ai hô hào làm việc gì đó để “góp phần giải phóng miền
Nam” là háo hức làm ngay.
Năm mình học lớp 4, thầy hiệu trưởng phát
động phong trào “Hũ gạo chống Mỹ”, mỗi ngày bớt một nắm gạo gửi vào chiến
trường cho bộ đội ăn no thắng Mỹ. Tất cả học sinh đều tự giác thực hiện rất
nghiêm túc. Nhà mình còn có một nắm gạo bỏ vào hũ chứ nhà thằng Xuân chỉ
có một nắm gạo nấu cháo cho cả nhà, nó vẫn bỏ nắm gạo ấy vào hũ. Cả nhà nó chấp
nhận ăn khoai sắn để dành gạo gửi ra chiến trường”. Cứ cuối tháng học sinh lại
ôm hũ gạo ấy đến trường, khoe gạo của nhau, cãi nhau ỏm tỏi, nói gạo tao ngon
hơn- Gạo mi mà ngon- Gạo mậu dịch không ngon thì gạo mô ngon- Ê ê ngu ngu, gạo
mậu dịch mà ngon.
Mặc kệ chúng nó nói, mình vẫn tin gạo
mậu dịch của mình là ngon nhất. Hũ gạo của mình ghi dòng chữ bằng vôi trắng: Hũ gạo chống Mỹ của em
Nguyễn Quang Lập, học sinh lớp 4c… Mình tưởng tượng các chú
bộ đội ôm hũ gạo của mình đổ vào nồi, tấm tắc khen gạo của em Nguyễn Quang Lập
lớp 4c rất ngon, tự nhiên mình sướng rêm, tự hào kinh khủng. He he.
Bây giờ nhớ lại mới giật mình đặt câu
hỏi: chẳng biết “Hũ gạo chống Mỹ” của tụi mình có ra được chiến trường
không, hay là ở lại trong kho ông chủ nhiệm hợp tác? Là nghĩ vậy thôi chứ tụi
mình không hề ân hận gì về những việc đã làm. Dù gạo có chạy đi lối nào thì
niềm tự hào ấy vẫn không thay đổi, chỉ cần mình hoàn thành nghĩa vụ của một
người yêu nước là quá đủ, không cần phải nghĩ ngợi gì nhiều.
Dài dòng như vậy để nói không phải thầy
trò trường mình điên khùng, tự dưng ách giữa đàng muốn quàng vô cổ, không ai
bắt sản xuất cũng lao đầu vào sản xuất. Chỉ vì khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt” lúc đó
quá đỗi thiêng liêng, được góp phần cho bộ đội ăn no thắng Mỹ là công việc quá
lớn lao, không thể thoái thác.
Ngày đó trường mình chia làm ba đội:
đội trồng trọt, đội chăn nuôi và đội công nghiệp. Lớp mình lúc đầu thuộc đội
trồng trọt, sau chuyển sang đội công nghiệp. Gọi công nghiệp cho oách, kì thực
là nấu dầu tràm. Không biết ai đã sáng chế ra cái nồi nấu dầu tràm to cao như
đống rơm, chắc là các thầy bên tổ tự nhiên. Nấu dầu tràm na ná như nấu rượu.
Đại khái bứt lá tràm về cho vào nồi, đun thật sôi, hơi dầu bốc lên đi qua ống
lọc dẫn đến bể làm lạnh, dầu hóa lỏng chảy vào chai, xong. Một nồi tràm to đùng
thế kia cũng chỉ thu được đôi ba chai dầu thôi, nhưng mà háo hức lắm. Mỗi tháng
được chừng 50 chục chai dầu tinh lọc, mỗi chai rót vào hai chục lọ nhỏ, vậy là
có cả nghìn lọ dầu gửi ra chiến trường, sướng rêm.
Các lớp thay nhau nấu suốt ngày đêm,
mỗi ngày đêm nấu được 3 nồi, mỗi nồi mất chừng hơn ba tạ lá tràm, cả tấn lá
tràm một ngày đêm, một tháng ngốn chừng 30 tấn lá tràm. Bãi tràm
sau trường bát ngát mênh mông là thế, chỉ vài tháng bị cắt sạch. Lúc đầu
qui định mỗi đứa một tuần 30 cân lá tràm thấy nhẹ hều. Ra bãi tràm cắt chừng
một giờ là đầy gánh. Sau, khi bãi tràm sau trường bị cắt sạch, tụi mình phải đi
xa hơn, có khi đi ra tận Quảng Tùng, Quảng Xuân, suốt ngày kiếm
không đủ một gánh tràm. Khi đó lũ “nhất quỉ nhì ma” tha hồ trổ tài tháu
cáy nhằm tăng cân gánh tràm. Đứa nhúng nước, đứa ngâm bùn, đứa lót gạch vào
giữa gánh, hết thảy đều bị lật tẩy. Đứa nào đứa nấy méo mặt, đi học chẳng lo
thiếu điểm, chỉ lo gánh tràm thiếu cân.
Một hôm mình phát hiện ra một bãi tràm rất
tốt chừng ba bốn chục gánh, mừng như cha chết sống lại. Sợ chúng nó phát hiện
được cắt hết, mình liền làm cái biển gỗ: “Khu vực có bom từ trường,
cấm vào”, đóng cọc cắm lên đấy. Từ đó cứ đến ngày thứ
5 ( phiên nộp lá tràm của lớp mình) mình túc tắc quảy gánh ra, cắt một gánh
đầy, khỏe re. Chúng nó thấy mình cắt được tràm tốt, đi về rất nhanh, ngạc nhiên
lắm, phục mình sát đất. Nhiều đứa năn nỉ hỏi mình cắt ở đâu. Tất nhiên mặt mình
vênh lên, nói thiên cơ bất khả lộ. Được vài tuần, một hôm mình quảy gánh
đi ra thì bãi tràm đã bị cắt sạch. Cái biển của mình bị xóa đi, đứa nào đó viết
đè lên: “ Tổ bọ thằng Lập!” Tức chết
được hi hi.
Kiếm lá tràm còn dễ hơn kiếm phân trâu bò (
gọi tắt phân bò cho nó gọn). Ở đội trồng trọt, cày cuốc cấy gặt không sợ, sợ
nhất là việc nhặt phân bò. Qui định mỗi tuần một đứa phải nôp 30 cân thôi,
nhưng trâu bò ba xã quanh trường chắc không đủ ngàn con mà ngày nào cũng có cả
ngàn đứa quảy gánh ra đồng nhặt phân bò, kiếm đâu ra? Khắp cánh đồng ba xã ngày
ấy, ở đâu cũng thấy học sinh cấp 3 quảy gánh lượn lờ quanh các đàn trâu
bò. Hễ thấy con nào cong đuôi, cả chục đứa bưng rổ chạy đến tranh nhau hứng,
cãi nhau chí chóe, nói tau thấy trước tau thấy trước- Ê ê đừng có gian, tau
thấy trước không phải mi. Lắm khi mất bạn mất bè vì một bãi phân bò.
Nhưng tình yêu cũng nảy nở từ phân bò, hi hi.
Con trai thường tinh nhanh hơn con gái, nhiều đứa nhặt phân bò nhanh như chớp,
chỉ cần hy sinh một bãi phân bò đôi khi cũng lấy được cảm tình của các “ em”.
Các “em” cũng khôn lắm, thấy chú nào hăm hở xăm xăm đi tới nơi có phân là các “
em” đã kêu to, nói ê ê của em của em, em thấy trước. Chú cười cái xoẹt, vội
tránh ra cho người đẹp dù biết thừa người đẹp chẳng hề thấy cái “ của em” nằm ở
đâu. Có chú đã nhặt phân bỏ vào gánh rồi, nghe các “em” nũng nịu, nói của em…
của em mừ, đành ngậm bồ hòn “ nôn” ra cho người đẹp.
Mất bãi phân bò nhưng được các “ em” nhoẻn
miệng cười, ném cho cái liếc, thật sướng củ tỉ. Có chú còn nói: các “ em” bảo
ăn hết bãi phân bò tao cũng ăn ngay, nói chi việc nhường nhau một bãi phân. Hy
sinh phân bò cho các “em”, được các “em” ném cho mấy nụ cười, mấy cái liếc thế
là quá hạnh phúc rồi, không dám mơ tưởng gì thêm nữa.
Thằng Cảnh mê gái đẹp nhất hạng, trong lớp
chục “em” nó mê 5 em, lại còn mê tràn sang các “em” lớp khác, mê nhất là “em”
Thuận lớp 8E xinh nhất trường. Nó làm thơ tặng các em trong lớp: Ước gì anh hóa phân bò/ để
em nhặt lấy nộp cho thầy Hiền. Mình chê dở, sửa lại thơ cho
nó: Ước gì anh hóa phân bò/ để em nhặt lấy ủ cho thật nồng. Thằng
Cảnh gật gù khen hay, nó chép lại tặng cho con Thuận. Chẳng dè con Thuận khóc
như cha chết, nói anh Cảnh khinh em, coi em không bằng cục cứt. Thằng Cảnh hãi
quá, cầu cứu mình. Mình bèn trổ tài đấu hót, nỉ non với con Thuận về “giá trị
thiêng liêng của phân bò” suốt buổi chiều nó mới hết giận. Từ đó nảy nòi ra
“thơ ca trường phái phân bò”, đứa làm thơ, đứa “ phổ nhạc” loạn cả lên. Sáng
sáng chủ nhật, đàn con trai quảy gánh ra đồng, vừa đi vừa hát rống lên bài hát
nhại theo bài “ Cung đàn mùa xuân”: Em ơi tới đây nhặt phân bò. Kìa bò đã cong
đuôi, trâu cày đang dạng háng ơ hơ…
Thằng Thái Bình lớp 8A mê con Châu lớp mình,
một hôm nó đứng cửa sổ ném thơ cho con Châu, chẳng may trúng đầu mình. Mình giở
ra đọc oang oang: “ Châu ơi giấc mơ học trò/ đêm nào cũng thấy phân bò
và em”.
He he có lẽ đó là câu thơ hay nhất thời phân
bò và dầu tràm.
Rút từ Ký ức vụn 2
0 nhận xét:
Đăng nhận xét