Có vẻ như dị nhân Kiểm Hát là thiên sứ được trời cử xuống giúp đỡ nhà tôi. Trời sai Kiểm Hát xuống để mắng mỏ ba , chỉ có dã ba mới chịu ngồi yên cho mắng mỏ. Chiều nào dã cũng chống nạng lò cò tới nhà tôi. Khi rượu đã say, cãi nhau với đài đã chán, dị nhân Kiểm Hát mới sang “phát phiếu tiên tiến cho cu Vũ”, dã thường nói vậy trước khi mắng mỏ ba. Đôi khi hai, ba ngày không thấy dã sang cả nhà tôi đều nhớ. Nhớ nhiều nhất là anh Bảy, anh yêu dị nhân Kiểm Hát, coi dã như cha. Cho tới bây giờ anh Bảy vẫn xuýt xoa nói, nhà mình may ở gần ông Kiểm Hát. Không có Kiểm Hát ai dám mắng ba khi ba sai? Anh Bảy nói đúng. Dị nhân Kiểm Hát là lộc trời của nhà tôi.
Dị nhân Kiểm Hát ở sát sau nhà bác Đông, từ cái chuồng bò nhà tôi đến nhà dã không đầy trăm mét. Tôi tròn một tuổi vẫn được anh Bảy cõng sang nhà dã chơi. Sau cái chết hụt của ba cũng là sau khi tôi ra đời, anh Bảy thu mình lại ít tiếp xúc với đám đông, ngoài giờ đi học anh thường ở nhà chơi với tôi, chỉ chơi với tôi không chơi với ai. Chừng như đã đến lúc anh Bảy nhận ra tầm quan trọng của gia đình. Vẫn xuống hói mò cua bắt cá nhưng anh không bỏ nhà đi suốt ngày đêm nữa. Anh bỏ cuộc chơi với lũ trẻ cùng lứa trong xóm, bỏ luôn vị trí đầu đàn trong các đám rước, suốt ngày chỉ cõng tôi quẩn quanh từ chuồng bò nhà tôi ra nhà dị nhân Kiểm Hát, chỉ thế thôi.
Nhiều đêm, anh Bảy chiêm bao thấy ai đó trong nhà tôi bị bắt hoặc bị bắn chết, anh chồm dậy khóc thét lên. Tôi cũng giật mình tỉnh giấc và cũng khóc thét lên. Cả nhà tôi bừng tỉnh lo lắng nhìn nhau. Những giấc mơ kinh hãi như thế theo anh Bảy suốt cả cuộc đời. Đến tuổi bảy mươi những giấc mơ kinh hãi có từ thuở ấu thơ vẫn không chịu rời bỏ anh.
Dị nhân Kiểm Hát quí anh Bảy nhất nhà. Dã quyết định truyền nghề đan nơm cho anh. Mi liệu hồn lo lấy một nghề sau này còn có cái bỏ mồm nghe Bảy. Kiểm Hát đe. Anh Bảy dạ, răm rắp làm theo chỉ bảo của dã. Bác cháu suốt ngày quấn quít lấy nhau. Chỉ có Kiểm Hát mới sai bảo được anh Bảy, nhà tôi không ai bảo được anh. Ai bảo gì hoặc anh im lặng nhăn nhó hoặc anh im lặng cười cười, từ ba trở xuống anh không cãi lại ai cũng chẳng ai bảo được anh. Ba mạ có điều gì muốn khuyên bảo anh cũng phải chạy sang nhờ dị nhân Kiểm Hát.
Anh Bảy ít khi hỏi ba, anh coi ba là thánh, thánh để thờ không phải để hỏi han. Với dị nhân Kiểm Hát thì khác, anh Bảy rất hay hỏi. Anh toàn hỏi những gì anh đã biết hoặc đã có câu trả lời. Học đan nơm anh hỏi chuyện đan nơm thì ít hỏi việc đời thì nhiều. Có lẽ vì thế mà Kiểm Hát thích anh. Làm cách mạng thì không phải làm nghề gì nữa hả bác. Có lần anh Bảy hỏi. Ừ... chịu khó ăn đói chút thì không phải làm thêm nghề gì nữa. Kiểm Hát nói. Bác nói ba tui không làm cách mạng được à? Đúng rồi không làm được, ba mi chỉ giỏi bú cu Cách mạng thôi. Anh Bảy nhăn răng cười. Tui làm cách mạng được không? Đom! Mi thẳng như ruột ngựa không làm chi được mô, chỉ có ngồi đan nơm được thôi. Bác cũng thẳng như ruột ngựa à? Phải... tau còn thẳng hơn cả ruột ngựa. Dã cười sật sật. Anh Bảy không biết ruột ngựa cong thẳng thế nào nhưng anh tin dã.
Ngày ngày đi học về, cơm nước xong là anh Bảy cõng tôi chạy sang nhà Kiểm Hát. Tôi bò quanh nhà hoặc chơi với hai con mèo để anh tự do ngồi học đan nơm. Đôi khi Kiểm Hát bế tôi đặt vào lòng, cạ râu lên má tôi, xuýt xoa tiếc rẻ. Thằng ni sinh sớm một canh giờ là làm vua rồi đó, tiếc quá hè. Tôi chẳng biết vua là gì để mà tiếc, chỉ thấy khó chịu khi bị dã cạ râu, mùi rượu nồng nặc cùng với những sợi râu nhọn hoắt đâm vào má thật khó chịu. Tôi khóc, cố nhào ra khỏi lòng Kiểm Hát, bò đi tìm hai con mèo, nằm ngủ chung với chúng dưới gầm giường, trong xó bếp.Tôi ngủ say sưa cho đến khi nghe Kiểm Hát nghêu ngao hát. “Sinh ra cái đạo làm trai...”, giờ say của Gã say thời đại mới, thì tỉnh giấc. Tôi chui ra khỏi gầm giường, hí húi bò ra sân trong tiếng hát sặc mùi rượu của dã.
Anh Bảy vẫn đang mắm môi mắm lợi niết từng múi mây, dị nhân Kiểm Hát nằm khểnh trên chiếc chõng tre đặt ở hiên nhà uống rượu và gật gừ hát. Tay cầm chai rượu, lâu lâu chiêu một ngụm, khà một tiếng rõ to. Và hát. Chân phải lành lặn vung lên hạ xuống khi co khi duỗi theo nhịp điệu câu hát, chân trái cụt đến bắp vế cũng cất lên đặt xuống nhịp nhàng, cặp đôi chân lành chân cụt múa minh họa thật ngộ nghĩnh.
Đã sáu giờ chiều, loa truyền thanh nổi nhạc hiệu chương trình thời sự. Dị nhân Kiểm Hát bắt đầu vặn volume cổ họng, ra sức gào rú câu hát “Sinh ra cái đạo làm trai...” cố át cho được chương trình thời sự của nhà đài. Cuộc đấu volume bất tận của dã với loa phóng thanh phá đi buổi chiều yên tĩnh xóm Cầu Phố, bù lại dân cả xóm mỗi ngày kiếm được trận cười vui vẻ. Dạo này có thêm màn cãi nhau với đài của dã, dân xóm Cầu Phố mỗi ngày lại có thêm một trận cười vui vẻ nữa.
Cứ đúng tám giờ tối dị nhân Kiểm Hát chống nạng đi ra đường, ôm lấy cây cột loa truyền thanh phía chân cầu Phố, trước ngõ nhà tôi. Lũ con nít rật rật chạy theo dã, túm tụm đứng sau lưng dã chờ nghe dã cãi nhau với đài. Dã ngửa cổ chờ nghe đài nói. Đến chỗ nào trái tai là hét lên. Vơ đài nời... thiệt không, thiệt không đó? Lũ trẻ vỗ tay rần rần, đồng thanh hét to. Thiệt không đó! Thiệt không đó! Đài lại nói, dị nhân lại hét lên. Lũ trẻ lại vỗ tay rần rần, đồng thanh hét to... Cứ thế cho hết chương trình thời sự. Đài chuyển sang chương trình ca nhạc, dị nhân Kiểm Hát mới chống nạng ra về. Bước đi bước nhún lúc la lúc lắc, cùng với câu hát muôn thuở của dã, “Sinh ra cái đạo làm trai...”, lũ trẻ chạy theo dã đồng thanh hát theo: “Ăn cho no vuốt cặc cho dài”... ầm ĩ cả xóm Cầu Phố.
Ba cố tình bịt tai cài trốc, coi như không nghe không thấy dị nhân Kiểm Hát nói gì làm gì. Từ khi rời chức chủ tịch Thị trấn lên huyện giữ chân phó ban tuyên giáo, thực chất là chân cạo giấy, lương lậu chẳng được bao nhiêu lại phải đối diện với người ân nghĩa như núi Thái Sơn là dị nhân Kiểm Hát, ba vô cùng bối rối lúng túng. Không ít lần ba mắt trước mắt sau sang nhà Kiểm Hát, túm lấy tay dã ngó ngược ngước xuôi nói như vầy như vầy.... Rứa a rứa a?... Dã nói và vuốt râu cười cái hậc. È he... cùng lắm hắn lôi tau ra đình làng bắt dựa cột, đòm phát là xong, lo chi hè! Dạ gằn giọng. Ba đành lắc đầu bó tay, ông chỉ đe nẹt anh Bảy, cấm không cho anh chạy theo đám trẻ bám theo dã. Anh Bảy vẫn lén lút tót ra khỏi nhà bám theo dã khi có thể, nhiều khi quên cả việc chính của anh là kiếm tiền nuôi sống cả nhà.
Đây là thời điểm nhà tôi đang đứt bữa. Đã hơn một năm, từ khi anh Ba đi Bulgaria, sau đó là mạ sinh tôi phải ở cữ mất bốn tháng, nhà tôi lâm vào cảnh nợ nần. Việc anh Ba bỗng nhiên được giấy triệu tập của tỉnh cho đi học ở Bulgaria là sự kiện chấn động cả Thị trấn, niềm tự hào không thể tả của nhà tôi. Bức ảnh đầu tiên anh gửi về chụp anh đang mặc áo lông cừu đứng trước cổng trường Đại học Sofia, mọi người ngất ngây chiêm ngưỡng anh như chiêm ngưỡng một người đang đứng trước cửa thiên đường.
Ba đã ứng trước bốn tháng lương đưa hết cho anh Ba làm lộ phí ra Hà Nội rồi đi Bulgaria. Nhà nước đã lo hết mọi thứ nhưng không thể không có vài trăm đồng phòng khi bất trắc. Bốn tháng sau đó ba không có lương, tài vụ hồi ứng trăm phần trăm, không cách nào khác ông phải vay nợ sáu mươi bảy đồng năm hào, số tiền đúng bằng đồng lương đã hồi ứng. Chừng đó tiền nhà tôi tiêu mười ngày là hết. Hai chục ngày còn lại đều trông vào việc chạy chợ của mạ và việc đơm bắt cá của anh Bảy.
Bốn tháng mạ ở cữ, ba lại phải vay thêm mỗi tháng hai suất lương, loay hoay thế nào sau một năm nhà tôi nợ đúng một ngàn đồng, trị giá gần bằng hai chục cây vàng. Con số khổng lồ khiến ba mạ chưa khi nào ngon giấc. Chưa khi nào ba mạ hay cãi nhau như lúc này. Nhiều lần họ cãi nhau đến trắng đêm. Đợi con ngủ hết rồi mới vùng dậy thì thầm cãi nhau, đêm nào cũng vậy. Cãi nhau lâu ngày sinh nghiện, không cãi nhau đâm khó ngủ. Cái bệnh cãi nhau của họ bắt đầu từ đó, càng già càng nặng thêm. Đến bảy tám mươi tuổi như động rồ, đang ôm nhau ngủ bỗng giật mình tỉnh giấc. Trăng lặn rồi. Ba nói. Chưa, lặn mô mà lặn. Mạ nói. Thế là cãi nhau chí chết cho đến sáng.
Anh Bảy tôi nghe lỏm hết tất cả các cuộc cãi cọ ấy. Trời phú cho anh một tinh thần trách nhiệm không ai bì được, anh lao vào cuộc đơm bắt tôm cá suốt ngày đêm. Anh càng cố gắng bao nhiêu nợ nần nhà tôi càng chồng cao lên bấy nhiêu, anh kiệt sức nản chí. Không biết tỏ cùng ai anh ngồi khóc một mình.Tật khóc một mình của anh Bảy cũng bắt đầu từ thuở đó. Đang ăn bật khóc, ngồi chơi bật khóc, đang ngồi trong lớp anh cũng bật khóc như dở hơi.
*
Một buổi chiều ngồi học đan nơm ở nhà Kiểm Hát, anh Bảy lầm lì suốt buổi không nói gì. Dị nhân Kiểm Hát thấy lạ. Răng mi ngấp mồm cả buổi rứa Bảy? Dã hỏi Anh ngước mặt lên, hai mắt anh đỏ hoe. Răng khóc? Dã liền đến bên anh. E con không học đan nơm được mô. Anh Bảy nói. Vì răng? Dã hỏi. Nhà con mắc nợ cả ngàn đồng rồi. Anh Bảy chảy nước mắt, nghẹn lại không nói được.
Dị nhân Kiểm Hát xoa đầu anh Bảy. Để em đó bác trông cho, ra hói đi con. Dã nói. Anh Bảy vẫn tiếc rẻ vụ đan nơm chưa muốn đứng lên. Dã lại xoa đầu anh. Đi đi con, mi có hiếu như rứa, răng rồi Trời cũng giúp. Một câu vu vơ vậy nếu là người khác nói, kể cả ba, không bao giờ anh Bảy tin. Nhưng dị nhân Kiểm Hát nói anh tin ngay không một lời thắc mắc. Anh gửi tôi cho dã, xách nò ra hói.
Con hói sau nhà tôi gọi là Hói Ma. Thực ra nó không có tên, trẻ con nhiều thế hệ ngụp lặn ở con hói này đều gọi như thế, lâu ngày thành tên. Nó là một nhánh rẽ của sông Kô Long chảy sâu vào Thị trấn. Kô Long là sông nước lợ, khi chảy vào Hói Ma nước sông chuyển thành nước ngọt, cứ như vừa đi qua bể lọc nước mặn vậy. Hói Ma là nơi trú ngụ hàng trăm loài tôm cá nước ngọt, nó là con hói bình thường, chỉ dân Kô Long mới thấy tính ma mị của nó. Ngoài màu nước xanh trong bình thường Hói Ma có ba màu đặc biệt, màu diệp lục màu đen và màu đỏ. Các màu xuất hiện ngẫu hứng, không theo một chu kì nào cả.
Một năm một vài lần con hói chuyển sang màu đen, ấy là khi có người trầm mình tự vẫn. Đầu tiên là kiến bám đầy hai bờ hói, bờ này kiến đen bờ kia kiến đỏ. Nước hói chuyển sang màu đen cũng là lúc cả con hói kín đặc ruồi kết thành từng đám mây ruồi ba là là trên mặt nước. Vơ làng... có người chết! Có ai đó hét lên. Người ta túa ra con hói, thi nhau ngụp lặn tìm kiếm, thế nào cũng tìm được người trầm mình, chưa có trường hợp nào nước hói đen lại không có người chết.
Trầm mình ở Hói Ma đa số là các cô gái trẻ, duy nhất một ông già bảy mươi chết vì thấy trên bờ hói ma một người đàn ông đang khoác vai bà vợ đã li dị gần chục năm. Tôi chết đây! Ông kêu to. Cứ tưởng ông đùa, ai dè ông đâm đầu xuống hói, cú đâm rất mạnh bùn ngập đầu, chết tốt.
Đất Kô Long từ khi khai thiên lập địa đến nay sáu, bảy trăm năm mới có chừng dăm bảy chục lần nước hói chuyển sang màu diệp lục, dân Kô Long gọi là màu trời cho. Hễ Hói Ma chuyển sang màu diệp lục là cá tôm đổ về, đánh bắt mãi không hết. Cảm tưởng cá tôm nước lợ sông Kô Long, đổ vào hói ma chuyển thành cá tôm nước ngọt. Không ai biết vì sao như thế, có thế mới gọi là Hói Ma.
Buổi chiều ba tôi được khiêng về từ làng Bùng về Thị trấn theo lệnh sửa sai của Chính phủ, Hói Ma chuyển thành màu diệp lục. Khi ba chui khỏi cái hình trụ vĩ đại để về với vợ con, cả Thị trấn đổ xô xuống hói bắt tôm cá mấy ngày đêm. Dân Thị trấn mấy ngàn người sục sạo bắt tôm cá, rất lạ nước hói không đục bẩn chút nào, vẫn xanh màu diệp lục. Mấy chục tấn tôm cá được chuyển lên bờ rồi thế mà con hói vẫn đầy tôm cá.
Lạ nữa, khi Hói Ma chuyển sang màu diệp lục, Thị trấn Kô Long không còn một con chuột, ruồi và kiến cũng chẳng còn con nào. Cả muỗi cũng biến đi đâu mất tiêu. Dân Kô Long đêm ngủ không phải mắc màn, mâm cơm không bị ruồi bâu, đi chân đất không bị kiến cắn, hũ gạo bồ thóc không bị tấn công… quả thật còn hơn cả những giấc mơ đẹp nhất. Như là chuyện cổ tích. Từ bấy đến nay ( tức từ 1956 đến 2016) hơn nửa thế kỉ Hói Ma chưa chuyển màu diệp lục một lần nào nữa.
Hói ma cũng hiếm khi có màu đỏ. Dân Kô Long thấy có chín lần con hói chuyển sang màu đỏ, bảy lần chúa Trịnh choảng nhau với chúa Nguyễn từ năm 1627 tới năm 1672, một lần Nhật- Pháp choảng nhau năm Ất Dậu, lần gần đây nhất đầu do đồng chí Đội trưởng cầm đầu quân ta choảng quân mình trong ba năm Giáp Ngọ, Ất Mùi và Bính Thân, gọi là cuộc cách mạng long trời lở đất. Cứ khi nào chiều tối hôm trước chuột về đầy hai bờ hói, bờ bên này chuột đồng xếp hình vuông từng đám liên tiếp nhau, bờ bên kia chuột cống xếp thành hình tròn như cái nong, vô số những cái nong chuột kéo cho tới bờ đê, sáng hôm sau hói ma chuyển sang màu đỏ rực.
Không ai dám bén mảng tới con hói, phần vì hai bờ hói đầy chuột, phần vì người ta đoán chắc có một cuộc choảng nhau lịch sử sắp xảy ra. Đất Kô Long chín lần hói ma đỏ rực chín lần đều xảy ra các cuộc choảng nhau. Buổi chiều ngày 13 tháng 2 năm Giáp Ngọ chuột bỗng về chật cứng hai bờ hói ma. Dị nhân Kiểm Hát ra bờ hói thấy từng đám chuột vuông vuông tròn tròn lúc nhúc kín đặc hai bờ. Dã khạc mấy khạc nhổ mấy cục đờm. Xong om! Dã kêu to. Xong om!… Bớ làng xong om! Dân Kô Long nháo nhác không biết chuyện gì xảy ra. Cả ngàn người chạy ra Hói Ma, hương khói khấn vái suốt đêm.
Sáng hôm sau hói ma đỏ rực đón chào đồng chí Đội trưởng dẫn Đội cải cách về đất Kô Long. Hai bờ hói bỗng rộn vang tiếng chuột kêu, bờ bên này chuột đồng kêu chít chit hào hùng nhịp 2/4, bờ bên kia chuột cống kêu chút chút rộn rã nhịp 4/4. Con hói đỏ rực lên đúng một ngày, hôm sau xanh trong trở lại như không có chuyện gì xảy ra. Hai bờ hói mấy chục vạn con chuột cũng giải tán đi đằng nào không biết. Suốt ba năm cải cách, không một con chuột nào bén mảng trên đất Kô Long, tới khi Sửa Sai, chuột mới theo lũ trở về chất đất Kô Long, đồng chí Đội trường mặt xanh đít nhái đã cao chạy xa bay.
*
Hói Ma xanh trong hiền hòa trở lại từ lâu rồi. Bây giờ anh Bảy đang rải chín cái nò đơm tôm dọc bìa hói. Đặt xong nò cuối cùng anh thấy phía nò đầu tiên cá quẫy rất mạnh, nước văng tung tóe đèn nò vụt tắt. Anh chạy tới, vừa lội xuống hói anh dẫm phải vật gì cưng cứng. Tưởng cục gạch anh tính lôi lên để chèn lên đỉnh nò, nơi này nước chảy hơi xiết nò dễ bị trôi. Không phải cục gạch, một bịch vải nhỏ đựng gì đó rất nặng. Mấy cái bịch thế này anh vẫn gặp rất nhiều ở khắp nơi, đó là vũ khí của lũ trẻ chăn trâu, chúng thường chèn sỏi đá vào bịch làm những “quả đạn pháo” tấn công đối phương. Anh ném cái bịch lên bờ, bỏ đi.
Được vài bước anh Bảy khựng lại, bỗng nhiên anh có nhu cầu xem trong bịch có gì mà nặng thế, nặng hơn bịch sỏi đá của lũ trẻ. Quay lại lấy cái bịch, anh tháo đầu bịch xổ ra cả đống vàng lá sáng lấp lánh. Anh Bảy dụi mắt mấy lần xem mình có hoa mắt không. Đúng là vàng! Anh vội vàng hốt vàng vào bịch, hót thật nhanh để không ai trông thấy. Anh ôm cái bịch chạy ù về nhà. Mạ ơi... mạ ơi! Vào đến cửa anh đã hét vang lên. Mạ... đây có phải vàng không? Anh xổ ra cả trăm cây vàng trước mặt mạ. Đã từng làm dâu ở trong nhà ông bác Vĩ gần chục năm, mạ biết cây vàng là thế nào. Mạ ngây người trước đống của không hề có ngay cả trong giấc mơ của bà.
Vàng! Vàng thiệt rồi... Mặt mạ tái dại, bà rên lên khe khẽ. Mạ nghĩ có lẽ một nhà giàu nào đó đã tẩu tán của cải trước khi bị bắt. Bà ôm lấy bịch vàng run lẩy bẩy như người lên cơn sốt rét. Có trăm cây vàng mà hai mẹ con ngồi đếm miết vẫn không xong. Vừa đếm vừa run, lộn, đếm lại. Ngó trước ngước sau như vừa ăn cắp của ai, lại lộn, lại đếm lại.
Mạ đuổi hết con cái ra khỏi nhà chỉ giữ anh Bảy ở lại, bà cùng anh chọn chỗ giấu vàng. Đấy là cái hốc rỗng chân cột hậu chuồng bò chìm sâu dưới nền chừng một gang tay, nơi anh Bảy vẫn giấu tiền riêng của anh. Mạ đem hũ muối và mấy chai nước mắm đặt hờ sát ngay đó. Ít ai nghĩ đó là nơi cất giấu bí mật, nó không kín đáo để nghi ngờ cũng không hớ hênh để dễ phát hiện. Giấu diếm xong xuôi mạ gọi con vào nhà nghiêm mặt đe nẹt. Nghe mạ dặn đây. Mạ nói. Tuyệt không được nói với ai, đứa mô nói chết tau nghe chưa! Mạ nhắc lại ba lần. Cả lũ dạ ran.
Anh Tám anh Chín vui mừng vì được tham gia vào một chuyện bí mật, họ ôm nhau nhảy cà tẩng. Và túm gấu áo bà giật giật, thi nhau hỏi. Mạ mạ... có nói với ba không?... Có nói với ba không? Không. Tuyệt đối không đứa mô nói với ba, nghe chưa. Mạ nghiêm giọng, miệng nói tay đe. Anh Tám anh Chín lại thi nhau hỏi. Răng không được nói với ba?... Răng không được nói với ba? Câm ngay! Mạ rít lên, tiếng rít của mèo giữ con . Bà quá sợ vì anh Tám anh Chín bịch vàng trước sau gì cũng bị bại lộ. Chẳng biết làm sao nói cho hai anh tôi hiểu, mạ cứ rít lên.
Ba về, cả nhà len lén nhìn ông. Mạ cố tránh mặt ba, bà lúi húi dọn mâm sắp đũa lại sắp đũa dọn mâm. Không biết làm gì nữa bà ngồi ôm tôi run run. Nằm gọn trong lòng mạ, tôi nghe ngực bà đánh thình thịch, tiếng trống ngực đánh nhịp ba liên hồi nghe dễ sợ giống như tiếng trống đình làng chuẩn bị giết người. Ba thấy lạ, ông nhìn quanh mâm cơm. Nhà có chuyện chi à? Ông hỏi. Mạ cố trấn tĩnh tươi cười. Có chi mô... Mạ nói, môi bà run run. Ba càng sinh nghi. Xưa nay mạ không hề giấu ba chuyện gì, chỉ là không tiện nói chứ không hề muốn giấu giếm, riêng chuyện này bà tuyệt không muốn cho ông biết. Sau lần chết hụt ba sợ tất cả những gì có thể là cái cớ để ông lại bị vu oan. Nếu ông biết mạ đang giấu vàng của người khác, bất kể nhặt được ở đâu, thể nào ông cũng lôi ra cho bằng được đem nộp chính quyền ngay lập tức.
Thời này giấu vàng của mình đã nguy hiểm, giấu vàng người khác càng nguy hiểm hơn. Một người ở chuồng bò lại có cả một bịch vàng, chỉ cần vậy thôi cũng đủ để người ta lôi cổ ba ra dựa cột đình làng một lần nữa. Lần này thì trời cứu, tang chứng vật chứng rành rành. Sau sửa sai huyện nhà vẫn có người bị lôi đi xử bắn vì tội giấu bốn chục cây vàng. Khi mình có trong tay trăm cây vàng, chẳng khó gì để người ta qui cho cái tội làm thủ quĩ cho Quốc Dân Đảng. Mạ biết vậy nhưng bà tiếc của. Một trăm cây vàng có thể để nhà tôi đủ sống được chục năm, vào khi nhà tôi đang mong sống qua từng ngày, làm sao mạ không tiếc?
Ba lừ lừ hết nhìn vợ lại nhìn con. Đứa mô biết nhà mình vừa có chuyện chi, nói ba nghe? Ông nhẹ nhàng hỏi. Con không nói! Anh Chín kêu lên. Con cũng không nói! Anh Tám được thể cũng kêu to. Và họ buông bát ôm nhau nhảy cà tẩng nói như hát. A a a... mạ dặn rồi... Không nói!... Không nói!... Không nói!... A a a... mạ dặn rồi... Không nói!... Không nói!... Không nói! Mạ xanh xám mặt mày.
Anh Bảy vùng dậy đá đít anh Tám anh Chín. Câm mồm!... Ngồi xuống ăn mau! Chị Hai gầm mặt không dám nói gì. Chị kéo anh Tám anh Chín ngồi xuống . Ăn đi... ăn mau lên! Miệng nói mắt lườm, chị ra giấu với anh Tám anh Chín.
Ba nhìn chị Hai chăm chăm. Nhà có chuyện chi con? Ông hỏi. Chị Hai giật mình đánh thót đánh rơi cả đũa. Con không biết... con biết chi mô! Chị lúng búng nói. Con biết!... Nhà này chuyện chi con cũng biết. Ba trợn mắt lên với chị Hai. Nói đi con! Ba hạ giọng năn nỉ. Con gái lớn trong nhà, con biết hết mà. Chị Hai bỗng hóc cơm ho sặc sụa phun cơm ra cả mâm. Ba ngao ngán, ông nuốt nước bọt cúi mặt ăn không nói gì thêm nữa. Cả nhà gầm mặt ăn theo ông. Mạ vẫn ngồi ôm tôi run run, bà không nuốt nổi một miếng nào.
Một con kiến nhéo ở ngón chân cái ba, ông cúi nhìn, chợt phát hiện đàn Kiến xếp hàng một kéo một đường thẳng tắp từ ngón chân cái của ông tới cột hậu chuồng bò. Ba buông bát dò theo đường kiến đi tới cột hậu chuồng bò. Mạ ôm chặt tôi ngồi chết lịm. Chưa đầy một phút ba đã lôi ra được cái bịch vàng. Chìa cái bịch vàng trước mặt mọi người, ông hỏi. Cái chi đây? Chị Hai hét lên một tiếng thất thanh. Ba ơi đừng đừng... đừng đừng ba ơi! Chị ôm mặt khóc nức nở. Mắt mạ trắng dã, bà hậc lên một tiếng, hậc lên một tiếng nữa và ngã lăn ra bất tỉnh. Tôi cũng ngã lăn ra theo mạ, sợ bà chết tôi khóc thét lên.
Ba vực mạ dậy đánh gió cho bà, lát sau bà từ từ mở mắt nhìn chồng, cái nhìn van nài khẩn khoản. Để lại cho em hai chục cây... trả nợ.... em xin. Mạ thều thào. Ba trào nước mắt. Không được mô mạ mi ơi! Ba nghẹn giọng.
Lúc này anh Bảy mới bật dậy. Không nhìn ai hết, anh ném cái bát vào cột hậu chuồng bò. Choang! Cái bát vỡ tan, cả nhà giật mình thảng thốt. Anh Bảy lừ lừ tiến về phía ba , mắt mở to rực lửa nhìn ông hồi lâu. Ba không làm cách mạng được mô! Anh Bảy văng ra một câu cộc lốc. Ba ngẩng phắt nhìn anh Bảy, cái nhìn thị uy. Anh trừng trừng nhìn lại ba, cái nhìn nảy lửa. Ba không làm cách mạng được mô!.... Không làm được mô! Anh hét lên tưởng chừng đứt cả cuống họng.
Anh Bảy quay ngoắt lao ra khỏi chuồng bò. Trong giây lát anh bất ngờ quay lại đứng ở cửa. Ba không làm cách mạng được mô, bỏ đi ba ơi!... Bỏ đi! Anh ra sức gầm lên. Ba há hốc mồm, ông không thể tưởng tượng được thằng con trai mười một tuổi của ông dám nói với ông như vậy. Ông ôm cái bịch vàng rũ xuống ngồi khóc rưng rức.
Cả nhà tôi được thể khóc òa theo, ai nấy thi nhau khóc như cha chết. Đám ma đưa tiễn bịch vàng trời cho trong chuồng bò tối tăm sao mà thê thảm thế.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét