KCVR 18: HAI ÔNG BÁC



Ba đem bịch vàng lên Công an huyện. Chẳng mấy chốc tiếng ồn đã dậy dậy đất, hai khu huyện ủy và ủy ban từ sáng tới tối chỉ nói mỗi chuyện cái bịch vàng. Khắp Thị trấn đâu đâu cũng có người bàn tán. Chợ phiên Kô Long râm ran chuyện cái bịch vàng từ đầu chợ tới cuối chợ. Cả ngàn người ùn ùn xuống Hói Ma ra sức lặn ngụp lùng sục, hy vọng tìm được bịch vàng thứ hai. Con hói trong xanh thơ mộng là thế bỗng đục ngầu, bốc lên mùi bùn tanh rình như mùi chuột chết.

Đã có nhiều kẻ rình rập cái chuồng bò nhà tôi. Không ai tin nhà tôi được một bịch vàng, phải được hai, ba bịch vàng trở lên mới đem đi nộp chính quyền một bịch, triết lý của chữ tham xưa nay đều vậy cả. Mạ ôm tôi ngồi bên bếp lửa ủ ấm cho tôi. Không ngoảnh lại bà vẫn biết có một vài con mắt nhìn trộm sau vách. Về sau có nhiều con mắt hơn, tuồng như tất cả khe hở bốn bức vách đều có các con mắt dán chặt vào đấy. Họ xì xào bàn tán và xuýt xoa tiếc rẻ. Không ai ngờ nhà tôi ngu đến vậy. Mạ ôm tôi cắn răng để không bật khóc.

Tại Công an huyện, sau khi cân đo chính xác người ta xác định một trăm lá vàng là hai trăm cây chứ không phải một trăm cây như nhà tôi tưởng, té ra một lá vàng là hai cây. Đồn trưởng công an đưa cho ba một lá vàng. Anh xem đây, nặng như ri răng một cây được. Đồn trưởng vui vẻ nói. Ba cầm lá vàng tung nhẹ mấy lần. Ông hồ hởi nói. Tui mới xem qua cũng không để ý. Ông hỉ hả cười vui sướng, cứ như ông vừa nộp thêm cho chính quyền một trăm cây vàng nữa.Tiếng cười vui sướng chưa dứt, ba sững sờ thấy trên tay ông là lá vàng của ông bác Vĩ. Đôi cánh bướm hình chữ V nằm ở giữa mỗi lá vàng là kí hiệu riêng vàng nhà Phạm Vĩ. Ba im lặng coi như không biết, tự hỏi làm sao vàng nhà Phạm Vĩ được giấu nơi Hói Ma?

Hơn chục năm làm quản lý, giữ tay hòm chìa khóa cho ông bác Vĩ, ba chẳng lạ gì vàng nhà Phạm Vĩ. Có bốn hộp vàng mười hơn vạn cây vàng, trong đó có một hộp đựng loại vàng lá hai cây.Tối qua ba chỉ mở bịch nhìn qua rồi vội vàng cột chặt không dám xổ bịch vàng ra, sợ vợ con trông thấy lại hối tiếc. Ông bí mật tìm cách đem giấu bịch vàng. Ba không nghĩ đó là vàng của ông bác Vĩ, không một mảy may. Hơn vạn cây vàng kia đã theo ông bác Vĩ bí mật rời Thị trấn Kô Long vào lúc rạng sáng mùa đông năm 1952. Ông không thể ngờ có một bịch vàng còn sót lại nơi đây, lại nằm dưới đáy Hói Ma cách xa nhà ông bác Vĩ hơn một cây số.

Ba không hiểu vì sao ông bác Vĩ lại trốn vào Nam trong khi Cách mạng liệt ông bác vào danh sách những tư sản có công với Cách mạng. Chỉ cần Cách mạng thành công là ông bác ngồi rung đùi hưởng lộc. Công lao như núi Thái Sơn chắc chắn lộc cũng như nước trong nguồn chảy ra, thế thì việc gì phải trốn? Với ba Cách mạng thật cao cả và thiêng liêng, ai không theo Cách mạng kẻ đó hoặc ngu xuẩn hoặc tâm thần. Thế mà ông bác Vĩ không theo, ông bác chỉ ra sức giúp đỡ Cách mạng những lúc khó khăn nhưng bảo theo thì không. Đống của cải ông bác Vĩ đã đổ cho Cách mạng có thể nuôi cả họ Phạm ở Thị trấn Kô Long sung sướng đến mấy đời hình như chỉ để giúp cho ông bác bỏ trốn được dễ dàng mỗi khi Cách mạng kéo cờ thắng lợi trở về, chỉ vậy thôi.

Ông bác Phú Huệ cho đó là ngu. Không theo Cách mạng là ngu. Đổ cả đống của cải cho Cách mạng rồi bỏ trốn khi Cách mạng kéo cờ thắng lợi trở về lại càng ngu hơn. Về chuyện này ông bác Phú Huệ nhiều lần cười khinh ông bác Vĩ. Dĩ nhiên ông bác Vĩ cũng cười khinh trở lại ông bác Phú Huệ. Với ông bác Vĩ muốn được thì phải mất. Làm ra mười phần phải biết mất đi bốn phần mới hòng giữ được sáu phần còn lại, nếu cứ khư khư giữ cả mười phần tóm lại chẳng giữ được phần nào. Ông bác Phú Huệ thì khác, làm ra mười phần chẳng những không chịu mất phần nào mà còn phải thu thêm mười phần nữa. Trời có mắt đó anh ơi. Trời chẳng cho ai liếm láp cả thế gian mô. Ông bác Vĩ kêu to. Thì mình chỉ liếm góc trời cho thôi nhưng phải liếm sạch, không để cho ai chen vô liếm. Ông bác Phú Huệ vuốt râu nói. Dễ thế a? Ông bác Vĩ cười khẩy. Ừ, dễ. Ông bác Phú Huệ lại vuốt râu.

Hai ông bác tôi khắc tính khắc khẩu luôn luôn cãi nhau, phần thua bao giờ cũng thuộc về ông bác Vĩ. Triết lý “chia phần” của ông bác Vĩ gặp triết lý “Không liên quan” của ông bác Phú Huệ thua là phải. Ông bác Vĩ đã chịu thua, ông bác Phú Huệ vẫn không cho thua, vẫn tấn công triết lý “góp công của để bỏ chạy” của ông bác Vĩ. Chẳng riêng gì ông bác Phú Huệ, cả dòng họ Phạm đất Kô Long không một ai giải thích nổi tại làm sao mỗi khi Cách mạng thắng lợi trở về và bắt đầu tính đến công lao những ai giúp đỡ mình cũng là khi ông bác Vĩ bỏ trốn. Mãi đến năm 1975, khi đất nước đã hòa bình thống nhất, “đất nước sạch bóng quân thù”, không còn lý do gì để chạy trốn, ông bác Vĩ vẫn chạy. Dưới con mắt người họ Phạm, đấy quả thật là tấn bi hài không gì chua chát hơn.

Năm 1975, ông bác Vĩ đón chào Cách mạng bằng tám yến vàng ròng, bốn nhà bốn tầng, hai nhà máy dệt, sáu xí nghiệp lắp ráp nông cụ kiêm sản xuất hàng rào dây thép gai cho các “Ấp tân sinh”, sáu trăm ngàn đô la chưa kịp gửi ngân hàng Thụy Sĩ... Đó chỉ là món quà mọn mừng Cách mạng. Trong vòng hai chục năm là tư sản số một Sài Gòn, ông bác Vĩ cũng đã đóng góp cho Cách mạng cả một núi của cải rồi. Nhờ đó ông bác Vĩ là công dân chế độ cũ đầu tiên được vượt biên công khai bằng dấu đỏ của chính quyền sau ngày 30 tháng 4 chưa đầy hai tháng.

Ngược lại, ông bác Phú Huệ bỏ chạy khỏi quê nhà từ thời cải cách, giàu có cự vạn trên đất Thái Lan, hay tin “đất nước hòa bình thống nhất, non sông thu về một mối” đã lập tức bay về Sài Gòn. Đại gia Phú Huệ dưới danh nghĩa Việt kiều yêu nước đã mua lại đống của các đại tư sản bán tống bán tháo chuẩn bị vượt biên gồm chín dinh thự, bảy xí nghiệp, hai lăm ô tô với giá rẻ như cho, chỉ trong mười ngày đã thu được món lợi hơn một triệu đô la thời giá lúc bấy giờ. Cùng với đống của cải mang từ Thái Lan về, đại gia Phú Huệ trở thành người giàu có nhất của “Sài Gòn giải phóng”

Ấy là khi ông bác Vĩ được cách mạng cấp cho hộ chiếu vượt biên. Ông bác Phú Huệ tìm gặp ông bác Vĩ, họ lại cãi nhau. Người này chửi người kia ngu, rốt cuộc ông bác Vĩ vẫn đi, ông bác Phú Huệ vẫn ở lại. Giống như nửa thế kỉ trước, năm 1952 khi Việt Minh kéo quân về giải phóng Thị trấn Kô Long, ông bác Vĩ lại đòi rũ áo ra đi. Họ cãi nhau, người này chửi người kia ngu, chửi nhau chán lại bỏ nhau đi, chẳng ai chịu ai. Kết quả ông bác Phú Huệ đúng, chẳng cần chạy đi đâu vẫn bảo toàn đống của cải. Nếu không có cuộc cải cách, ông bác Phú Huệ cũng phải bỏ của chạy lấy người, thì cuộc ra đi của ông bác Vĩ bị ông Phú Huệ mắng cho ngu xuẩn thật không sai chút nào.

Dưới mắt đại gia Phú Huệ, lần này đại gia Phạm Vĩ lại làm một cuộc di cư ngu xuẩn nữa. Ông bác Phú Huệ không cản được ông em cùng cha khác mẹ bèn gọi điện cầu cứu ba, đứa con nuôi yêu quí và tin tưởng của ông bác Vĩ. Ba vội vã vào Sài Gòn. Xe chạy ba ngày hai đêm mới vô thấu Sài Gòn, đúng lúc cả nhà ông bác Vĩ ra sân bay chuẩn bị bay sang Pháp. Ba nháo ra sân bay ôm lấy ông bác Vĩ khóc nấc lên, nghẹn ngào nói. Ba ơi... đất nước hòa bình thống nhất rồi ba còn chạy đi mô? Con ơi... ba muốn ở lại lắm. Ông bác Vĩ cười như mếu. Trời ơi... ai cấm ba ở lại, ai cấm? Ba kêu to kinh ngạc.

Ông bác Vĩ ngồi ôm đầu hồi lâu không nói, rất lâu sau bất ngờ bật dậy ôm siết chặt lấy ba . Con ơi ba không ở lại được mô, không được mô con… Chừng như không nín được nữa ông bác tôi bỗng khóc òa. Tiếng khóc đau thương ai oán ông bác tôi đưa tiễn ông bác tôi ly hương và vĩnh viễn không bao giờ trở lại. Ba đứng há hốc mồm nhìn ông bác Vĩ khóc. Ba hoàn toàn không hiểu gì, cho đến năm bảy mươi ba tuổi, tận ngày về trời ba vẫn không hiểu.

*

Trước Cách mạng tháng Tám, ông bác Vĩ là nguồn cung cấp tài chính cho hầu hết những ai đang hoạt động trong vòng bí mật ở huyện nhà. Nhường cái tầng hầm cho Cách mạng dùng để hội họp và ẩn nấp rất an toàn, ông bác đã nuôi giấu mấy trăm lượt cán bộ Việt Minh. Suốt thời kỳ kháng Pháp nhà ông bác Vĩ là nguồn cung cấp lương thực chính cho chiến khu Đá Mài. Về sau ông bác còn thu mua vũ khí cho Việt Minh, biến cái tầng hầm thành kho chứa vũ khí, súng đạn và bộc phá cho cả trung đoàn chủ lực thuộc chiến khu Đá Mài. Nhờ vậy ba được tiếp xúc với cán bộ Việt Minh, ba biết thế nào là cách mạng và hồ hởi đi theo liền không chút đắn đo. Ông bác Vĩ không hề biết chuyện này, đó cũng là một bi kịch.

Chỉ là con nuôi, ba vẫn được ông bác Vĩ coi như con thừa tự. Toàn bộ cơ nghiệp của ông bác Vĩ sẽ do ba nắm giữ khi ông bác Vĩ già yếu hoặc chết đi, ông bác đã công khai với cả nhà như thế, tất nhiên có kèm theo một chữ nếu. Ba cũng đã hứa nhiều lần với ông bác Vĩ chỉ làm giàu không làm quan. Ba còn hăng hái viết hẳn cả câu tiếng Pháp đi cùng một câu tiếng Việt to tướng trên xà ngang “Chỉ làm giàu không làm quan”. Ông bác tôi khấp khởi mừng thầm.

Ngày ba đỗ đầu diplome, với tấm bằng đỏ chói ông bác Vĩ sướng ngây ngất ôm chặt lấy ba nghẹn ngào sung sướng, coi ba như là lộc lớn Trời cho. Từ đó ông bác giao cho ba tay hòm chìa khóa, giúp ông bác quản lý cả núi tài sản khổng lồ, kể như sự nghiệp làm giàu của ba không gì có thể thay đổi được. Hay tin ông bác Phú Huệ sang tận nhà giận dữ chửi ông bác Vĩ một tràng. Cu Vũ là cu Vũ, hắn không phải con mi. Ông bác Phú Huệ giận dữ nói. Xưa nay tiền chỉ có một chủ, tiền không thể vừa của người này vừa của người kia. Nuôi ong tay áo là trò ngu nhất trong mọi trò ngu. Ông bác Phú Huệ cao giọng. Tự dưng giao cả đống của cải vào tay con nhà người khác, có phải ngu không? Ông bác Phú Huệ rít lên.

Ông bác Vĩ cười nhẹ như không. Phú Huệ là Phú Huệ, Phạm Vĩ là Phạm Vĩ, tuy rằng cùng nguồn tinh trùng nhưng ở hai ổ trứng khác nhau, anh em ruột nhưng không cật, chẳng dạy nhau được đâu. Ông bác Vĩ túc tắc nói. Họ lại chửi nhau, rượu uống càng say chửi nhau càng nhiều. Chỉ khi dị nhân Kiểm Hát đi thẳng vào mâm rượu chửi cho cả hai là ngu thì cả hai mới im lặng.

Ít lâu sau mới rõ ra ông bác Phú Huệ lại đúng nốt. Ông bác Vĩ phát hiện ba đã đi theo Cách mạng, đã được kết nạp Đảng tại tầng hầm bí mật nhà này và hình như là bí thư chi bộ Đảng phía Bắc huyện nhà. Một giờ để sốc, ông bác Vĩ nằm vật ra giường thở dốc, cả nhà hoảng hốt tưởng ông bác có thể tăng xông mà chết. Một giờ để giận dữ. Mi đã hứa với tau chỉ làm giàu không làm quan kia mà! Ông bác Vĩ gầm lên trong bữa ăn. Ba tròn mắt nhìn cha nuôi. Thì con có làm quan mô. Ba nói. Con chỉ theo Cách mạng thôi, có làm quan mô! Ba lại nói.

Mi sai rồi con ơi. Ông bác Vĩ nói như rên. Nhà giàu chỉ giúp Cách mạng thôi, không theo Cách mạng được mô, có muốn theo người ta cũng chẳng cho theo, ngu lắm! Cay đắng hết nỗi ông bác Vĩ đành phải nói thật. Ba mắt tròn mắt dẹt, ông không thể hiểu cha nuôi mình nói gì. Ông bác Vĩ ném đũa đi lên gác, ở đó ông bác có một giờ để khóc. Cắn môi đến bật máu và khóc, kể như từ đây ông bác tôi mất một đứa con.

Ông bác Vĩ lẳng lặng chấm dứt vai trò tay hòm chìa khóa của ba. Vẫn ba ba con con thắm thiết như xưa và sẵn sàng đáp ứng bất kì yêu cầu nào của ba một cách vui vẻ, nhưng tự ông bác đã có một khoảng lùi cần thiết cho đề phòng và cảnh giác. Ba không nhận ra, tiếc thay ba đã không nhận ra điều đó.

Khi ba nói “cách mạng cần” lập tức ông bác Vĩ nói “có ngay” với một thái độ hồ hởi phấn khởi của một con dân kính trọng cách mạng, thực lòng coi việc đóng góp cho cách mạng là hạnh phúc. Ấy là khi ông bác Vĩ đối xử với ba như đối xử với cách mạng, không còn coi ba là con cái trong nhà nữa. Trước đây thì không. Khi ba nói “cách mạng cần”, ông bác Vĩ chặc lưỡi gật đầu, nói “Ừ, đưa ngay cho người ta”. Cái chặc lưỡi chán nản của kẻ sợ bị bòn rút nhưng không dám từ chối.

Ông bác Vĩ không hề tiếc của, chỉ rất sợ bị làm phiền. Bất luận lúc nào Việt Minh tìm tới yêu cầu cung cấp thuốc men, lúa gạo, cả tiền vàng, thậm chí cả súng đạn, ông bác đều đáp ứng nhanh chóng. Ông bác hãi nhất khi Việt Minh đặt vấn đề, thay vì nói cần bao nhiêu thì họ nói loanh quanh vì a vì b vì c... tràng giang đại hải. Quá sợ sự tràng giang đại hải, ông bác Vĩ đùn ba lên tiếp xúc Việt Minh.

Ba đã không để ý đến thay đổi tinh tế của ông bác Vĩ, vui mừng về những gì thu được cho cách mạng từ nhà cha nuôi, ba đã không quan tâm đến điều ấy. Ba đinh ninh vì những lẽ a, b, c ấy mà ông bác Vĩ đã nhiệt tình đóng góp cho cách mạng. Ba tưởng ông bác Vĩ theo cách mạng cũng hồn nhiên như ba theo cách mạng, nếu không theo cũng yêu cách mạng đến thế nào mới đổ hết đống của cải khổng lồ cho cách mạng mà không hề hối tiếc. Có phải vậy không ba?... Một lần ba hỏi ông bác Vĩ. Non... non... non jamais... không bao giờ... không bao giờ! Ông bác Vĩ cười sặc sụa, vừa cười vừa ho, tay xua miệng nói. Ba tròn mắt nhìn cha nuôi của mình, ông không hiểu. Không cách gì ba có thể hiểu ông bác tôi.

Năm 1952, ba dẫn tiểu đoàn chủ lực về Thị trấn nhổ sạch ba cái đồn tây, Thị trấn hoàn toàn giải phóng. Một vạn dân Thị trấn hân hoan chào đón tiểu đoàn chủ lực, ăn uống và ca hát suốt đêm. Toàn bộ chi phí cho đêm liên hoan của một vạn dân Thị trấn là do ông bác Vĩ bỏ ra, cả thảy là sáu vạn đồng và tám tấn gạo. Ông bác Vĩ khúm núm chào hỏi hết lượt, khúm núm từ ông Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ cũng là con nuôi ông bác đến tất cả sĩ quan thuộc tiểu đoàn trưởng chủ lực. Một trăm tút thuốc lá Rubi, sáu tạ đường, mười tấn gạo và hai chục vạn đồng ông bác Vĩ đã khúm núm dâng lên cho Thủ trưởng, bây giờ là chính ủy Trung đoàn chủ lực chiến khu Đá Mài.

Ba sung sướng tự hào vô cùng, ông ôm chầm lấy ông bác Vĩ. Ba ơi, rứa là ba yêu cách mạng thật rồi, không ai yêu cách mạng bằng ba mô. Ba nói như khóc. Non... non... không phải rứa mô con. Ông bác Vĩ cũng ôm chầm lấy ba nói như khóc. Rứa ba đổ ra cả đống của để mần chi? Ba hỏi Ông bác Vĩ cười to, cái cười chua chua đăng đắng. Ông bác đột ngột ngừng cười, vỗ nhẹ ba cố nói một câu thật tỉnh táo. Để mua lấy cái chữ nhàn con ạ. Chữ nhàn là cái chi, răng ba mua đắt rứa? Ba lại thật thà hỏi. Chữ nhàn đắt lắm... con ơi! Ông bác Vĩ lại cười, cái cười chua chua đăng đắng.

Tối đó ông bác Vĩ uống say, rất say. Ông bác bá vai các chiến sĩ hát hơn chục bài ca cách mạng, hát và cười, hát và khóc... cho đến ba giờ sáng. Bốn giờ sáng ông bác gặp ba, ôm lấy ba mà khóc. Cách mạng về rồi… ba lại đi tìm cái chữ nhàn đây con. Ông bác Vĩ nghẹn giọng thì thầm. Ba chẳng hiểu gì hết, ông đinh ninh ba nuôi mình say, nói linh tinh vậy thôi. Chẳng ngờ năm giờ sáng toàn bộ khu nhà của ông bác Vĩ bốc cháy cùng với kho đạn pháo của Việt Minh cất giấu dưới tầng hầm bí mật. Đạn pháo nổ kinh quá, không một ai dám xông vào dập lửa. Bảy giờ sáng khu nhà ông bác Vĩ biến thành tro bụi. Không ai tìm thấy xác ông bác Vĩ, cả người nhà và gia nô cũng thấy xác một ai, người ta khẳng định chính hầm đạn pháo đã biến họ thành tro bụi.

Lúc bấy giờ ba mới giật mình hiểu ra những gì người cha nuôi nói lúc bốn giờ sáng. Khi đó gia đình ông bác Vĩ đã lên tàu thủy chạy thẳng vào Nam, để lại một đám tro bụi nhằm rũ sạch lý lịch cho ba và họ hàng cháu chắt nhà ông.

*

Duy nhất ông bác Phú Huệ biết trước chuyện này. Đêm trước ông bác Vĩ kéo cả nhà chuồn vào Nam, hai ông bác tôi lại ngồi với nhau và cãi nhau. Bốn giờ sáng nhà ông bác Vĩ cháy nổ kinh hoàng, trong khi mọi người nhào vào cứu chữa, ông bác Phú Huệ chạy ra bờ sông nhìn theo chiếc ca nô đang chạy ra cửa biển bây giờ nhỏ như một dấu chấm hết. Ngu! Ông bác Phú Huế hậc lên một tiếng giận dữ và đau xót.

Giá ông bác Vĩ nghe được tiếng chửi ấy thế nào cũng cho tàu quay lại với người anh cùng cha khác mẹ. Chỉ vì ông bác Vĩ không nghe theo triết lý “Không liên quan” của ông bác Phú Huệ nên họ cãi nhau suốt đời, mỗi lần cãi nhau ông bác Vĩ lại bỏ chạy, ông bác Phú Huệ lại giàu lên. Khôn dại ở đời thật khôn lường. Trong khi cả họ Phạm đất Kô Long đều thấy ông bác Phú Huệ là khôn thì ông bác Vĩ cứ khăng khăng cho là dại. Ai cũng nghĩ chỉ vì ông bác Vĩ cứ đắp tai cài trốc không chịu nghe lời ông bác Phú Huệ nên suốt đời lận đận giữa đi và ở. Suốt đời cống nộp tiền của và bỏ chạy sao có thể gọi là khôn?

Buổi chiều ngày 26 tháng 8 năm 1975, ông bác Vĩ lên chuyến bay Air France vượt biên sang Pháp, ông bác Phú Huệ ngửa cổ nhìn trời, khạc to một tiếng, ngu!

Ba năm sau ông bác Phú Huệ mới biết ông bác Vĩ khôn, khi đó đã quá muộn rồi. Năm 1978 Cách mạng kéo quân vào Sài Gòn đánh chiếm tư sản, triết lý “Không liên quan” của ông bác Phú Huệ bền vững nửa thế kỉ qua bỗng sụp đổ trong một giờ. Với Cách mạng thì không có gì là không liên quan. Chín dinh thự, bảy xí nghiệp, 25 ô tô bị tịch thu. 8 tỉ tiền Việt, hai triệu đô la và hơn một trăm ngàn lạng vàng chất đầy một xe tải. Tôi dại rồi! Ông bác Phú Huệ đứng ở gác thượng ngôi nhà 6 tầng hét to ba tiếng và nhằm đúng chiếc xe tải lao đầu xuống, nát nhàu trong vũng máu trước sân nhà.

Cũng năm đó ông bác Vĩ về nước trong vai trò một Việt kiều yêu nước có đóng góp nhiều cho Cách mạng, được Cách mạng đón rước linh đình, tiệc lớn tiệc nhỏ tít mù. Mấy ngày sau ông bác Vĩ mới trốn được Chính quyền lẻn tới chùa Vĩnh Nghiêm ôm lấy chút tàn tro ông bác Phú Huệ mà khóc. Ối anh ơi em đã bảo anh rồi!...Ông bác Vĩ khóc cho tới trắng đêm rồi đem tro cốt ông bác Phú Huệ về Pháp, từ đó không bao giờ về nước.

*

Trước khi bay sang Pháp ông bác Vĩ có một giờ ngồi nói chuyện với ba, một giờ cuối cùng và mãi mãi. Vai trò con thừa tự của ba đã mất từ lâu nhưng tình máu mủ thì còn mãi. Năm đó tôi hai mươi ba tuổi nì nèo ba cho gặp ông bác huyền thoại, được ba đồng ý còn sướng hơn trúng giải độc đắc. Thời gian quá ít, ông bác Vĩ chỉ dành cho tôi một cái vỗ vai thân thiết. Tôi chào ông, ông bác vỗ nhẹ vai tôi. Ừ, cu Quang đây phải không? Đẹp trai à nghen, học giỏi không? Những câu hỏi không cần phải trả lời. Thế cũng đủ cho tôi sung sướng, bõ công vượt ngàn cây số vào đây.

Một giờ con lại ông bác Vĩ tập trung nghe ba kể chuyện. Một giờ cho câu chuyên hai mươi năm trên đất Kô Long làm sao mà kể hết. Chỉ riêng dòng họ Phạm đói rách lầm than thế nào cũng đã mất năm chục phút rồi. Mười phút còn lại ba không biết nói gì, nói gì cũng thiếu thà không nói còn hơn. Thực ra không nói ông bác Vĩ cũng biết thừa, kể cả cái chết hụt của ba mà ông cố giấu, sợ cha nuôi ông buồn.

Ông bác Vĩ trao ba chục cây vàng cho ba. Tiền vàng nhà cửa ba đã giao hết cho Cách mạng, ba chỉ còn chừng ni dành lại cho nhà con.Ông bác nói, ít khi cho tiền ông bác Vĩ lại giải thích vòng vèo thế này. Nhưng ba không để ý. Ba quá vui mừng, ông cảm động ôm ba chục cây vàng mặt mày đỏ nhừ, rưng rưng nhìn người cha nuôi. Suốt đời ba chưa có ai cho ông được ba xu, chỉ có ông bác Vĩ đã nuôi ông ăn học, đã cưới vợ cho ông, dựng cho ông một ngôi nhà ba gian hai chái, và bây giờ là ba chục cây vàng. Với nhà tôi thời điểm nào ba chục cây vàng cũng là tài sản khổng lồ, nằm mơ cũng không thấy. Đúng là công cha như núi Thái Sơn, ba trào nước mắt.
Ông bác Vĩ lại tưởng ba không bằng lòng, ái ngại nói với ba. Con cầm tạm vậy.Tiền của ba không phải không có, nhưng cất hết ở ngân hàng Thụy Sĩ, lúc này đang nhộn nhạo lắm, ba không muốn. Không mô ba!..Ba tôi kêu lên, tiếng kêu hạnh phúc. Là sao? Ông bác hỏi. Chừng ni vàng là quá nhiều rồi. Ba hồ hởi nói. Chuyến ni về chắc chắn con trả hết nợ, có khi còn xây được cái nhà ngói ba gian. Nghe vậy ông bác Vĩ ứa nước mắt. Bây giờ ông bác tôi mới nhớ ra trong khi ông bàn giao hết nhà cửa cho Cách mạng thì thằng con thừa tự của ông vẫn chui rúc trong những ngôi nhà tranh rách nát. Suốt hai cuộc kháng chiến, nhà tôi di dời hơn chục lần, bị bom phá nát gần chục lần, ba mạ đã cất chẵn hai chục cái nhà, tổng số nợ cũng gần bằng số vàng ông bác vừa cho.

Giây phút đó bỗng nhiên tôi muốn mình là kẻ giàu sang được như ông bác Vĩ. Từ bé tới khi đó tôi chưa bao giờ mơ mình giàu có. Thuở nhỏ đi học mơ được cháu ngoan Bác Hồ, lớn lên chút mơ được đoàn viên bốn tốt, lớn lên chút nữa mơ đẹp trai mơ nổi tiếng mơ chim to… đủ thứ mơ nhưng không mơ giàu. Từ giây phút gặp ông bác Vĩ năm 1978 tôi chỉ mơ giàu không mơ gì khác. Đáng tiếc trời không cho tôi giàu, mơ cũng như không.

Bất chợt ông bác Vĩ hỏi ba. Kiểm Hát có nói chi với con không? Không, chuyện chi rứa ba. Ba thật thà hỏi. Mười phút không còn kịp để đắn đo, ông bác Vĩ nói nhanh..Trước khi vô Nam ba có gửi lại cho nhà con hai trăm cây, gửi chỗ Kiểm Hát...Ba tôi ngớ ra một hồi lâu mới à một tiếng tắc nghẹn, nước mắt hai hàng. Sao khóc? Ông bác Vĩ giật mình hỏi. Ba gạt vội nước mắt nói. Anh Kiểm Hát có nói với con nhưng con không tin. Ông bác Vĩ giật mình thảng thốt. Không tin thì sao? Ông bác lắp bắp hỏi. Không tin thì mày mang hết cả hai trăm cây vàng đem đi nộp chính quyền... có phải không? Ba cúi đầu im lặng, sự xác nhận đắng cay. Rốt cuộc tôi biết được đầu đuôi câu chuyện bịch vàng hai trăm cây hai mươi năm về trước.

Ông bác Vĩ ngồi cười, cười mãi. Rồi khóc, ông ôm ba khóc dài cho tới lúc chia tay. Tôi hai ba tuổi mới hiểu thế nào là tiếng cười chua chát và nước mắt đắng cay của người già. Sau này tôi cũng cười khóc như thế nhưng chẳng mấy ai quan tâm.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét