KCVR 20: CÁI CHUỒNG BÒ CỦA TÔI



Tới khi đũng quần ướt sũng nước tiểu, ba mới hiểu đám âm binh của Thủ trưởng đáng sợ đến thế nào. Muốn không bị chúng hành hạ chỉ có hai cách, một là rời bỏ công sở nhà nước về đi cày, hai là phải phấn đấu có chức vụ ít nhất cũng phải bằng chức vụ của Thủ trưởng. Với ba cả hai đều không thể. Về đi cày thực quá dễ nhưng chẳng lẽ theo Cách mạng bao nhiêu năm vào sống ra chết để rồi về đi cày? Còn việc kiếm một chức vụ ngang bằng với Thủ trưởng là chuyện viển vông vớ vẩn. Dù thế nào ba buộc phải chọn một trong hai điều đó, ông muốn đơm đó ngọn tre hơn là về nhà đi cày.

Sau lần chết hụt ba luôn luôn cảm thấy âm mưu đang rình rập sau gáy mình. Cái bịch vàng như quả bom tấn treo lên số phận của ba. Ông mất ăn mất ngủ vì cái bịch vàng. Không tin những gì dị nhân Kiểm Hát đã cho nhà tôi biết, ông vẫn lo ngay ngáy. Lo nhất bị người ta nghi cái bịch vàng là của ông bác Vĩ gửi cho, nếu có ai đó xác nhận được điều này thì vận mạng ba như trứng treo đầu đẳng. Đám âm binh của Thủ trưởng nhất định sẽ nhảy ra bủa vây lấy ba, làm cho ông nếu không thân bại danh liệt cũng phải bỏ làng ra đi, nếu không muốn thắt cổ tự tử.

Ba không ngờ chính dị nhân Kiểm Hát lại xác nhận với chị Hiên điều ấy. Có thể dã chỉ đùa cợt cho vui nhưng điều đó rất nguy hiểm. Ba không hề nghĩ Kiểm Hát nói thật, ông vẫn đinh ninh dã bịa ra như lâu nay dã vẫn bịa ra đủ thứ để mua vui vậy thôi. Từ huyện ủy về nhà ba sôi sục quyết tâm cho Kiểm Hát một trận ra trò. Về tới nhà thấy dã đang đứng dưới loa phóng thanh cãi nhau với đài, ba lại tắc lưỡi cho qua. Ba biết đó là người ông không thể đụng đến. Vì ơn nặng nghĩa sâu với Kiểm Hát ba không muốn làm to chuyện này, vả, càng làm to chuyện càng nguy hiểm, chẳng hay ho gì.

Nghĩ ngợi nhức đầu nhưng ba không thể không nghĩ. Có thể dị nhân Kiểm Hát chỉ nói đùa nhưng đời nào chị Hiên coi đó là đùa, kể cả khi dã khẳng định mình chỉ nói đùa thôi chị Hiên vẫn cứ cho là thật. Bởi vì điều đó có lợi cho chị và đồng chí Đội trưởng. Sửa sai đã xong, ba đã thoát chết, nếu không gá ghép cho ông một tội gì nhất định có ngày ông sẽ phản công, đang khi công cuộc hủ hóa của chị Hiên và đồng chí Đội trưởng đang thành công rực rỡ. Muốn tránh mối nguy cho mình thì hãy đổ mối ngờ cho cái kẻ khác, sử sách rành rành bao nhiêu bài học, đám âm binh của Thủ trưởng không thể không biết.

Đêm nay ba không ngủ được, xoay trở kiểu gì cũng không sao chợp mắt. Ông ngồi dựa vách liếp nghĩ ngợi linh tinh điều gì chẳng ra điều gì. Nghĩ lui nghĩ tới vẫn không thoát được đám âm binh của Thủ trưởng. Đối phó với đám âm binh thời nào cũng khó. Ba sáu chước, hạ sách là chuồn lẹ làng khỏi đám âm binh, trung sách là ngậm miệng ăn tiền, thượng sách là tiến lên làm chủ được đám âm binh kia. Chủ của đám âm binh kia là Thủ trưởng. Nếu muốn ngang hàng với Thủ trưởng, ít nhất ba tôi phải kiếm được cái ghế chủ tịch tỉnh. Một anh phó ban tuyên giáo huyện ngôi mơ ghế chủ tịch tỉnh hom qua ba còn coi đó chuyện viển vông vớ vẩn, hôm nay ông đã len lén đem nó vào giấc mơ. Nhưng không ai phạt thuế giấc mơ, ba cứ nằm rung đùi mơ cho hết giấc mơ tuyệt hảo của ông.

Văng vẳng tiếng cười dị nhân Kiểm Hát. Cái cười gầm gừ gắt gỏng của kẻ say. Không lẽ dã say vào lúc nửa đêm? Thường khi say ông Kiểm Hát chỉ có hát đâu có cười. Cái cười cũng lạ, nó phọt ra rất nhanh thu lại cũng rất nhanh nửa như khạc nhổ nửa như cười. Chưa khi nào Kiểm Hát có cái cười khó chịu đến vậy. Ba rời khỏi chuồng bò ngơ ngáo đi như kẻ mộng du, thoáng chốc đã đứng trước mặt dị nhân Kiểm Hát từ lúc nào không biết. Chi rứa? Dã hỏi. Răng cười? Ba hỏi. Dã rũ rượi ngồi bệt nền nhà, lưng tựa cột nhà tay cầm chai rượu, trông thật nhếch nhác bệ rạc. Giờ này vẫn còn say à? Ba nói. Dã bật cười, vẫn cái cười gầm gừ gắt gỏng.

Ba ngồi xuống cạnh giật lấy chai rượu làm một ngụm. Cười cái chi? Ba chùi mép nói. Dã giật lấy chai rượu tu một hơi dài. Tau cười mi đó. Dã lại chiêu thêm ngụm nữa. Chi mà nửa đêm ngồi cười tui, điên à? Ba nói. Ừ, điên. Dã gật gù. Điên thật rồi, thiên hạ đảo điên hết rồi. Dã rề rà nói. Hạng như mi lạiđòi làm quan to, thật tau nghĩ không ra. Ba giật mình, việc gì Kiểm Hát cũng đi guốc trong bụng, thật đáng sợ.

Ba làm bộ đùa chơi. Ai nói với anh tui làm quan to? Ba hỏi. Tau! Dị nhân Kiểm Hát nói. Rứa thì anh điên chứ không phải tui. Ba chọc tức Kiểm Hát. Dã đổi giọng rất nghiêm túc, cái nhìn cũng rất nghiêm túc. Tau vừa chiêm bao thấy mi làm chủ tịch tỉnh, thức dậy thấy lạ quá, cứ ngồi cười miết cho đến giờ.

Thoạt nghe ba chờn chợn, dã nói như ma nói. Sau rồi ông như mở cờ trong bụng. Điềm gì chăng, không lẽ trời xuống báo mộng thiên sứ? Vẫn như chuyện đùa chơi ba vỗ vai Kiểm Hát dã đánh bốp. Răng không mơ tui làm chủ tịch nước luôn đi! Kiểm Hát không thèm trả lời, dã ôm chai rượu nhấp ngụm này sang ngụm khác. Ba phủi đít quần đứng dậy, ông vỗ vai dã. Thôi ngủ đi cha nội! Ba bỏ về nhà, cái cười tủm giấu trong bóng tối.

Ê... cu Vũ! Kiểm Hát gọi giật. Nếu đúng thì răng? Dã hỏi với. Thì anh muốn gì tôi cũng chiều, kể cả chức Chủ tịch thị trấn. Ba đáp to, không thèm ngoảnh lại. Vơ cu Vũ nời… tau ẻ vô nha... ẻ ẻ quẹt quẹt! Dã cười to hét cũng to. Ba mang cái cưới tủm rời khỏi nhà dị nhân Kiểm Hát, mặc kệ dã muốn nói gì thì nói.

Kiểm Hát nhảy lò cò đuổi theo túm áo ba giật lại. Cu Vũ nghe này, tau không nói chơi mô. Dã nói. Thì răng? Ba nói. Thì ri… Dã nói. Ba đứng yên chờ dã tiếp tục. Nếu mi làm Chủ tịch tỉnh, mi cho tau đốt cái chuồng bò của mi, được không? Câu nói quá nghiêm túc làm ba sững người, ông cảm động muốn khóc. Ba ôm lấy Kiểm Hát làm như không có gì quan trọng. Nhất trí nhất trí!... Thôi cha nội ngủ đi cho tui nhờ. Ba vỗ vỗ lưng dã và bỏ đi thật nhanh, suýt nữa thì ông bật khóc.

Dị nhân Kiểm hát chui vào nhà lăn ra ngủ. Ba không ngủ được chút nào, trời xuống báo mộng thiên sứ làm sao không ngủ được. Ông ngồi lầm nhẩm tính xem đường hoạn lộ của ông có ai nâng đỡ. Không thể hy vọng nhân vật có số má ở thiên đình, có họa ngu mới hy vọng mấy kẻ khỏi vòng cong đuôi. Ông bác Vĩ đã vào Nam, ông bác Phú Huệ ở Thái Lan, cả hai chẳng những không thể cậy nhờ mà còn có thể báo hại ông lúc nào không biết. Chỉ còn dị nhân Kiểm Hát, thiên sứ nhà trời và cái chuồng bò, ấy là thần hộ mệnh của nhà tôi.

Lần đầu tiên Ba thắp hương kính cẩn trước bàn thờ nói những lời tâm thành, cảm ơn ông bà tổ tiên đã phù hộ độ trì cho ông được công thành danh toại. Là kẻ vô thần, luôn luôn chứng tỏ mình là kẻ vô thần, xưa nay ba chỉ thắp hương chiếu lệ khấn cầu chiếu lệ để chiều lòng mạ tôi, thực sự ông coi cái bàn thờ chẳng là gì hết. Cái bàn thờ chưa đầy một mét vuông treo lủng lẳng góc trái chuồng bò giờ đây mới linh thiêng làm sao, tuồng như nó quyết định toàn bộ sự nghiệp của ba.

Bài cúng của ba tôi:

Việt Nam dân chủ cộng hòa
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

Nam mô a dì đà Phật!
Nam mô a di đà Phật!
Nam mô a di đà Phật!
Tính chủ con là Phạm Vũ, 44 tuổi, đảng viên Đảng lao động Việt Nam, phó ban tuyên huấn huyện ủy, nguyên chủ tịch Thị trấn Kô Long.
Hôm nay tín chủ con đến trước Phật đài, dưới tòa sen hồng, cúi xin Trời Phật cứu vớt chúng con được trúng Hội đồng nhân dân huyện, tiếp tục trúng Hội đồng nhân dân tỉnh, muốn chức có chức, muốn lộc có lộc, tiến lên vào tỉnh ủy, trúng luôn thường vụ tỉnh ủy, giữ chức chủ tịch tỉnh.
Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần, con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy đồng chí Các Mác, đồng chí Lê Nin, đồng chí Xtalin, con lạy Thành hoàng làng Kô Long, con lạy tổ tiên dòng họ Phạm, con lạy đồng chí Trần Phú, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập....con lạy các đồng chí đảng viên Thị trấn Kô Long đã anh dũng hy sinh trong thời kì chống Pháp.
Đảng lao động Việt Nam muôn năm!

Nam mô a dì đà Phật!
Nam mô a di đà Phật!
Nam mô a di đà Phật!

Con lạy!

*

Tôi tỉnh dậy đúng lúc ba đang chổng mông lạy trước bàn thờ. Ngồi sau lưng ông, tôi nghe ông khấn những chuyện đâu đâu, chuyện đáng cầu Trời khấn Phật là chứng bất lực của ông thì không thấy ông đả động tới.

Tôi thường tỉnh dậy vào giờ này vì hằng đêm đúng giờ này ba bốc tôi ra khỏi mạ, hì hục xoay xở bà hơn một giờ không được gì, đành thở dài kéo quần lên. Đêm nào cũng giống đêm nào, ngủ chẳng ngủ được thức không xong rất vô duyên. Chứng bất lực của ba có từ đêm ba biết mình thoát chết gọi là đêm tái sinh, cứ tưởng sau vài tháng tĩnh tâm trở lại, khi không còn sống trong sợ hãi nữa chứng bệnh rồi cũng tiêu tan, chẳng ngờ mỗi ngày mỗi trầm trọng hơn. Trước đó cậu nhỏ hãy còn thức tỉnh đôi lần, dù chưa kịp xông trận đã gục ngã nhưng cũng đã kịp ngẩng lên, thậm chí đã đứng thẳng lên. Giờ nó đã chết hẳn. Bên ba là mạ, bốn lăm tuổi bảy đứa con vẫn tươi giòn mặn mà, vẫn ngậy mùi giống cái hấp dẫn. Thứ giống cái quí hiếm lộc trời ban cho, thế mà ông đành bó tay.

Vốn xuất thân từ một dòng tộc dâm đãng và hiếu thắng, ba càng đắng cay nhục nhã bội phần. Sau đêm tái sinh ba cắt bỏ hết mọi mối quan hệ với phụ nữ, ông không muốn cho ai biết cái chết của cậu nhỏ. Ba chẳng cần lo xa, số người tình của ông đã bỏ ông cao chạy xa bay, họ không muốn có bất kì một liên hệ nào với một tên phản động, bất kể đã có lệnh Sửa Sai hay không. Với tình duyên, đàn bà thường phòng xa hơn đàn ông vài chục dặm.

Chỉ còn lại mạ, người đàn bà suốt đời ngưỡng mộ ông. Bà chỉ có một người đàn ông duy nhất là ba, một mối tình duy nhất là ba. Dù có chém chết mạ cũng không chịu rời bỏ. Khốn thay vì điều đó mà ba không dám nhìn thẳng mặt mạ, ông xấu hổ quá chừng. Mạ vẫn làm như không có gì quan trọng xảy ra, tuy dễ nhận thấy bà trở nên ít nói hơn, chứng mất ngủ đã hằn rõ trên khuôn mặt bà với vệt thâm quầng kéo dài trên mí mắt. Ba cũng trở nên ít nói hơn, dễ cáu gắt hơn và cố tình ở lại cơ quan nhiều hơn.

Nhà chật không có chỗ nằm riêng, cái sự tay ấp má kề làm họ thêm khó ngủ. Đôi khi họ ngồi bật dậy nhìn nhau cười ngớ ngẩn. Răng? Người này hỏi. Răng là răng? Người kia lại hỏi. Kẻ cười khịt khịt, người cười hi hi. Rồi lại kéo nhau nằm xuống, bảo nhau ngủ đi. Ai cũng làm như mình đã ngủ say lắm, thực thì cả hai thức đến trắng đêm. Mạ quá thèm một ngôi nhà rộng, bà hết chịu nổi với cái chuồng bò như cái xà lim bức bối này.

Ba mạ không ngủ tôi cũng không ngủ. Tôi hai tuổi đủ láu lĩnh vờ nhắm mắt ngủ ngon, cùng với các anh chị nằm phục xem trò chơi đàn ông đàn bà của ba mạ, trò chơi thú vị nhất hấp dẫn nhất mà tôi được biết trong suốt tuổi ấu thơ. Chị Hai, anh Bảy, anh Tám, anh Chín cũng nằm phục xem như tôi nhưng họ không kiên trì, khi ba mạ kéo quần lên là họ lăn ra ngủ, họ đâu biết mỗi đêm ba mạ tụt quần ra kéo quần lên đến mấy chục lần. Càng thất bại ba càng cay cú, ông hành hạ mạ suốt đêm trường.

Trò chơi của ba mạ lặp đi lặp lại lần nào ba cũng thất bại nhàm chán đến nỗi tuy vẫn thức xem ba còn bày trò gì nữa không nhưng tôi không còn quan tâm đến ba mạ nữa, tôi quan tâm đến cái chuồng bò mà khi mới chui ra tôi nhầm đó là Đời. Cái chuồng bò của tôi, gọi vậy là vì chỉ có tôi còn yêu mến nó, cả nhà tôi ai cũng chán ghét cay ghét đắng nó, muốn tóng khứ nó đi lắm rồi. Kể từ khi tôi chui ra đời cho tới lúc này, tức là lúc biết nằm rình xem ba mạ, tôi đã phát hiện ra không biết bao nhiêu điều kì thú.

Vừa nứt mắt tôi ngửi thấy chuồng bò không chỉ khai nước đái bò, nó còn hôi mùi chuột. Mùi nồng nặc thế này không thể của một vài con, phải vài trăm con là ít. Chúng ở đâu dưới nền đất mười bốn mét vuông này? Chỉ cần bới một đám rơm lót nền lên thể nào cũng thấy một ổ chuột nhắt mới nở nhưng đào bới mãi cũng không thấy bố mẹ đám chuột mới nở này ở đâu.

Nằm vo tròn ngửi mùi chuột, cố đoán xem lũ chuột ẩn nấp ở hướng nào, tôi phát hiện ruồi bám đen trần nhà. Có đến vài chục vạn con, cả mảng trần mười bốn mét vuông dày đặc ruồi. Khiếp quá! Tôi còn phát hiện bốn bức vách đầy kiến, không bu bám đen đặc như ruồi nhưng cũng nhiều không kể xiết. Kiến lửa và kiến hôi, màu đỏ và màu đen, từ trần nhà chui xuống hoặc từ dưới đất đùn lên từng hàng thẳng băng như ai đó vạch những đường thẳng đỏ và đen xen lẫn nhau, có đến hàng trăm đường đỏ và đen như thế.

Chẳng biết hỏi ai làm sao ruồi, kiến bu bám đầy nhà, tôi đoán có lẽ vì mùi chuột, mùi nước đái bò đã kêu gọi chúng về đây? May thay chúng không động đến gia đình tôi, bảy người trong cái chuồng bò không ai bị chúng tấn công. Ngày mới nở, tôi nằm yên cho kiến bò qua bò lại, bu đầy đít đầy bẹn, không hề bị chúng cắn. Biết ngồi, biết bò tôi chặn đường đi của kiến, vốc từng nắm kiến ném đi vẫn không bị chúng cắn. Biết đi biết chạy, suốt ngày tôi chọc phá tấn công kiến, chưa khi nào thấy chúng nổi cáu tấn công tôi.

Chuồng bò là thế giới kì lạ và thân thiết của tôi. Nhờ nó tôi đã phát hiện ra cái bóng. Tôi tưởng cái bóng quan trọng lắm, càng lớn lên càng thấy nó là thứ vô nghĩa nhất trần đời. Tôi còn phát hiện chỗ đi đái của các thành viên trong gia đình tôi, cũng là phát hiện vô nghĩa nhất trần đời, khi đó lại làm tôi vô cùng thích thú. Ba tôi thường đứng đái gốc cây xoan trước cửa, mạ tôi và chị Hai ngồi đái phía sau cột rơm, anh Bảy đứng đái nơi ang nước, anh Tám anh Chín đứng trong nhà dí vòi ra phên đất đái vọt ra ngoài. Chỗ hai anh đứng đái thâm đen khẳm một mùi cà thối.

Sau bao nhiêu lần nằm xem ba mạ tụt quần áo chơi trò trốn tìm, tôi phát hiện con cu không chỉ có nhiệm vụ thông tiểu. Tôi còn phát hiện ra con gái đến tháng thì phải làm thế nào. Mạ và chị Hai đốt rơm lấy gio, dùng vải màn cuộn gio thành con chuột nhét vào chỗ kín. Khi nào chị Hai đốt rơm lấy gio làm con chuột tôi biết đến ngày bẩn của chị, nhất định không cho chị bế. Tôi còn phát hiện ra một số kẻ săn đuổi chị Hai tôi. Một cái lỗ nhỏ sát nơi chi Hai năm là nơi mấy ông anh săn đuổi chị Hai tôi nhét thư. Chị hầu như không động đến bất kì thư nào được nhét vào đấy.

Mặc cảm nghèo đói buộc chị Hai không màng tới chuyện tình duyên. Có kẻ còn nhét vào đấy cả cuộn tiền. Người nhét vào lại tự động rút tiền đi, chị Hai không màng. Nói chung chị Hai không mấy quan tâm thư, tiền nhét qua lỗ vách. Duy nhất một lần chị Hai nổi khùng. Nửa đêm cả nhà đã ngủ, đèn Hoa Kỳ nhỏ bấc đủ soi cái chuồng bò. Tôi phát hiện ra con cu ai đó nhét vào lỗ vách. Tưởng chị Hai không biết, không ngờ chị đang trố mắt nhìn, cái nhìn ghê tởm và tức giận. Chị ngồi dậy xòe diêm đốt vào con cu, nó biến mất trong nháy mắt. Ngoài vách có tiếng thét kinh hồn. Chị Hai cười rich rích. Mạ cũng đang giấu mặt vào nách ba cười rích rích.

Phát hiện cuối cùng đến chết tôi cũng không quên là những con mắt lạ phía sau bốn bức vách. Chuồng bò nhà tôi được xây cất tạm bợ, dùng cho bò ở nên chẳng việc gì người ta làm chu đáo. Bốn bức vách chuồng bò có quá nhiều lỗ thủng, tạo cơ hội cho thiên hạ chĩa mắt vào. Tôi thuộc từng ánh mắt phía sau bốn bức vách.

Vách phía Bắc là mắt thao láo của đám con trai bạn anh Bảy vào lúc ba giờ sáng, giờ ba mạ tôi tụt quần. Chỉ có anh Bảy làm tay trong họ mới chọn đúng giờ ấy để nhìn trộm.

Tám giờ tối là mắt lươn ti hí của bà Cả Lanh, ban chấp hành Hội phụ nữ phường Cầu Phố ở vách phía Tây. Bà Cả Lanh chọn lỗ hổng phía đầu giường của ba mạ , có thể nghe trộm rất dễ.

Mười giờ đêm vách phía Nam là mắt vàng như nghệ của anh cu Mịch, phó bí thư chi đoàn Cầu Phố kiêm thư kí hội đồng nhân dân Thị trấn.

Sáu giờ tối, giờ ăn cơm của nhà tôi, vách phía Đông là mắt rắn sáng trưng của chú Kha, chuẩn úy trưởng công an phường cầu Phố kiêm trưởng ban an ninh trật tự Thị trấn Kô Long.

Không cần nhìn đồng hồ, chỉ cần nhìn các con mắt đang dí vào bốn bức vách cũng đoán biết được mấy giờ. Sáu giờ tối mắt rắn. Tám giờ rối mắt ti hí. Mười giờ đêm mắt vàng khè. Ba giờ sáng mắt thao láo... Cứ thế, vô cùng chính xác.

*

Tròn một tuổi, tôi quyết định vượt biên ra khỏi thế giới của tôi. Chiều hôm ấy không biết có việc gì mà cả nhà tôi đi vắng. Anh Tám anh Chín có nhiệm vụ trông tôi cũng đã đuổi nhau chạy khắp xóm Cầu Phố. Tôi mon men ra cửa chuồng bò. Cái cửa liếp che tạm bợ chỉ cần ẩy nhẹ đã đổ. Tôi bò ra cửa, vượt quá cây xoan nơi ba đứng đái, bò vòng quanh cây rơm, nơi mạ và chị Hai thi nhau ngồi đái. Bò qua khỏi cây rơm tôi bỗng gặp một trời lộng gió, gió từ sông Kô Long thổi về mát kinh khủng.

Tôi ngồi lại xem tôi đang ở đâu. Phía trước là Cầu Phố, cây cầu đá dài bốn mét nổi tiếng bốn trăm năm bảy lần chúa Trịnh choảng nhau với chúa Nguyễn, khi Chúa Trịnh đòi móc mắt Chúa Nguyễn, khi Chúa Nguyễn đòi bóp dái Chúa Trịnh, các chúa thế nào quân các chúa cũng thi nhau làm vậy trên chiếc cầu này. Đây cũng là nơi con nít xóm Cầu Phố nhiều lần quyết tử với con nít xóm Long Phố, nơi trai gái thi nhau chui xuống gầm cầu hủ hóa, sau đó thi nhau chọn con lệch qua cầu lội về Hói Ma để tự tử.

Đây là nơi ba hẹn hò nhiều người đẹp Kô Long, đầu hôm ngồi trên cầu tán tỉnh lăng nhăng, tới khuya kéo nhau dưới gầm cầu tha hồ hú hí.Trước đó là ông nội ông ngoại , trước đó nữa là các ông cụ cố. Tới lượt tôi cũng vậy, có tới vài chục lần tôi kéo gái đẹp xuống gầm cầu. Nhà tôi trừ anh Ba chưa biết gái là gì đã đi tây, còn lại anh Bảy, anh Tám, anh Chín, tôi và thằng út thứ mười một, ai cũng vài chục lần chui xuống gầm cầu cùng với gái. Dần dà tôi biết con trai cả xóm Cầu Phố hầu hết dắt gái xuống gầm cầu vài mươi lần. Cây cầu chứa chấp được tất. Từ đời này qua đời khác, đêm nào cũng có vài ba cặp chui xuống gầm cầu, tuyệt không đụng nhau.

Tôi bò tới cây cầu, từ trên cầu nhìn xuống con lệch thấy nó sâu hun hút như đang nhìn xuống âm phủ. Ngồi trên cầu cúi nhìn con lệch mỏi cổ, ngửa cổ nhìn lên tôi bất ngờ phát hiện trên Cầu Phố là cả một bầu trời xanh mênh mông trùm khắp mọi nơi, những đám mây trắng xốp đang đùn lên ở đằng Đông rất đẹp. Và chim. Chim chiền chiện bay lượn ríu rít trên đầu, cò trắng dàn hàng ngang đậu trên bờ đê, sáo sấu nhảy lóc thóc trên bờ lệch, én liệng chập chờn trên sông Kô Long, những con quạ ngủ ngày giữa thinh không mà không hề bị rớt.... Hóa ra thế giới của tôi thật bao la và hấp dẫn vô cùng.

Tôi ngoái lại nhìn cái chuồng bò của tôi, nó xấu xí đến mức ghê tởm. Không phải nhà cũng chẳng phải chòi lều, đó là một đống tranh tre cũ kĩ mốc meo rách rưới bẩn thỉu đứng lạc loài giữa vũ trụ mênh mông. Thật khó tin có bảy con người sống ở đó, sống buồn khổ bức bối mà không ai thắc mắc. Chỉ có tôi bé nhất nhà, không biết nơi nào khác ngoài để so sánh, là sung sướng vì đã phát hiện bao nhiêu điều thú vị ở nơi khốn khổ ấy.

Tôi bò về cái chuồng bò, vừa chui vào cửa, một mùi hôi thối khẳm mùi nước đái bò và nước đái người xộc vào mũi đẩy tôi nháo ngược trở ra. Tôi ngồi trước cửa chuồng bò khóc to, tiếng khóc như tiếng kêu ai oán và sợ hãi động đến thiên sứ nhà trời là dị nhân Kiểm Hát. Dã chống nạng từ nhà lò cò bước tới. Răng khóc? Dã hỏi. Tôi không biết nói sao cứ ngồi khóc ti tỉ. Dã cúi xuống lấy vạt áo lau mặt cho tôi. Thôi nín đi rồi bác đổi nhà cho, nghe chưa! Tôi nín khóc ngay lập tức. Thằng ni khôn gớm bay. Dị nhân Kiểm Hát cười khì, đúng là dị nhân!

Dị nhân Kiểm Hát nhiều lần giục ba đòi lại ngôi nhà cũ. Nhà nước đã sửa sai thì sửa sai nốt những gì đã sai. Việc đuổi cả nhà tôi phải dời ngôi nhà ba gian hai chái về ở trong cái chuồng bò bỏ hoang là quyết định của đồng chí Đội trưởng, một cái lệnh mồm tùy hứng, vả Đội trưởng cũng đã cao chạy xa bay, tại sao phải sợ? Ba không sợ, ông thừa biết nếu đòi trở lại ngôi nhà cũ của mình nhất định chính quyền phải chấp thuận. Chủ tịch Thị trấn Kô Long, người kế vị ba tôi, vừa mới nhậm chức đã đề nghị trả lại ngôi nhà cũ cho gia đình tôi.

Ngôi nhà ấy hiện không ai ở, chỉ dùng làm nơi hội họp của xóm Cầu Phố. Từ ngày Đội cải cách bỏ đi, chuyện hội họp dần xao nhãng rồi bỏ hẳn, nó trở thành ngôi nhà hoang. Chỉ cần ba gật đầu, lập tức Chủ tịch Thị trấn bàn giao ngay ngôi nhà cũ cho ông. Thực ra chẳng cần hỏi ai, nhà tôi cứ thế kéo nhau về lại ngôi nhà cũ của mình cũng sẽ chẳng có ai cản trở. Nhưng ba đã không làm thế, đó là nỗi buồn của cả nhà tôi.

Lý do khiến ba không muốn rời bỏ chuồng bò thật ngớ ngẩn đối với toàn Thị trấn lại rất nghiêm trọng đối với ông. Nhờ cái chuồng bò mà nhà ông được rời bỏ thành phần trung nông trở về thành phần dân nghèo thành thị. Ơn ấy gọi là ơn mưa móc trời cho. Đang khi người ta đang xét lại thành phần, dù có đánh chết ba cũng không bỏ cái chuồng bò.

Dị nhân Kiểm Hát chửi ba ngu, chỉ có nhà ngói hay nhà lầu mới bị qui thành phần địa chủ hay tư sản, cái nhà ba gian hai chái kia dân nghèo khắp Thị trấn ai không có? Ba không nói gì, chỉ cúi mặt cười tủm tỉm. Kiểm Hát thừa biết nhà đó cũng do đại tư sản Phạm Vĩ làm cho ba nhưng dã chẳng thấy gì quan trọng. Với ba đó là chuyện quá quan trọng. Nếu ba đem vợ con trở lại ngôi nhà của mình cũng là cách ba thừa nhận mình đang sống nhờ vào tài sản của một đại tư sản, tầng lớp kẻ thù của Cách mạng. Đó mới là lý do làm ba run sợ.
Không phải sống dưới mái nhà của kẻ thù giai cấp mà Cách mạng bắt ba dựa cột một lần nữa, ông biết, nhưng để đi theo Cách mạng mà không phải lo sợ gì hết, tốt nhất là đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về ông bác Phạm Vĩ. Nghe ba nói, dị nhân Kiểm Hát hắt xì hơi ba bốn lần. Mi tưởng mình mi theo Cách mạng thôi à! Cả làng cả tổng theo Cách mạng đó kìa. Dã nói. Ba nhăn nhó lắc đầu. Mi tưởng mình mi hưởng lộc nhà Phạm Vĩ à! Thử hỏi họ Phạm trên đất Kô Long này ai không hưởng lộc Phạm Vĩ? Dã lại nói. Ba lại nhăn nhó lắc đầu. Ba biết dã muốn giễu ông cái gì, đó là cái chữ Quan ông hằng nung nấu.

Với dị nhân Kiểm Hát theo Cách mạng theo chẳng theo thì thôi, không sao hết. Nhưng theo Cách mạng để làm quan thì cực kì ngu xuẩn. Ba không biết giải thích thế nào cho Kiểm Hát hiểu, nói gì dã cũng gạt phắt đi. Ba không cười trừ mãi được, ông đành nói. Chữ quan với tui là phép thử. Mình phải dùng chốn quan trường để thử xem Cách mạng còn tin tưởng hay không. Ngụy biện! Kiểm Hát cười khinh bỉ. Răng lại ngụy biện? Cứ một nấc quan là thêm một lần Cách mạng đặt niềm tin. Ba gân cổ lên cãi. Dị nhân Kiểm Hát khạc cục đờm cái toẹt. Suốt đời cu Vũ lo sợ Cách mạng không tin tưởng à? Chơ răng. Ba nói. Bởi vì nó hệ lụy đến sống và chết, nhục và vinh, đâu phải chuyện đùa. Kiểm Hát cười to mấy tiếng, ngưng cười dã hất mặt ném vào mặt ba một tiếng, cặc!

Ba cúi mặt làm thinh. Chỉ điều này ba không muốn nói ra, ông muốn leo thật cao hòng đè bẹp đám âm binh của Thủ trưởng. Ba không muốn nói cho Kiểm Hát điều bí mật ông chôn chặt trong lòng, cũng là nỗi sợ hãi suốt đời ông. Bởi vì nếu nói ra ông lại ăn nốt củ cặc nữa của dị nhân Kiểm Hát.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét