KCVR 23: BÁC ĐÔNG TRAI



Đích thân bác Đông trai đang đêm trực tiếp điều quân đưa ba từ Thị trấn Kô Long về Thị xã Ô Lệ. Sáng hôm sau bác Đông trai tới nhà khách đưa ba đi ăn sáng, ba mới vỡ ra mọi chuyện. Đang đêm bí thư tỉnh ủy gọi điện cho phó ty công an Lê Đông. Có tin đồng chí Vũ đang ở khu vực không an toàn, tìm cách đưa đồng chí ấy vào ngay. Bác Đông trai hiểu ngay vấn đề, không cần nửa lời giải thích của bí thư, lập tức bác điều quân đưa ngay ba vào tỉnh, bí mật gấp gáp đến độ ba tưởng là một vụ thủ tiêu.

Đây là lần thứ ba bác Đông trai ra tay bảo vệ ba. Hai lần trước cách đây không lâu, một lần ba đắc cử Hội đồng nhân dân tỉnh và lãnh chức trưởng ty Giáo dục, lần tiếp sau khi ba lên chức phó chủ tịch ngày trước, ngày sau lên ngay chức quyền chủ tịch tỉnh, quan và dân trong tỉnh đều bất ngờ, tiếng ồn xôn xao khắp tỉnh. Cả hai lần đều cùng một tin cơ sở báo lên: “Có kế hoạch đặt mìn nhà ông Phạm Vũ”. Tin cơ sở báo lên thường là hoang báo nhưng không thể bỏ qua, người này lên hương người khác tất nóng mặt, không ai dám đảm bảo kẻ nóng mặt chịu ngồi yên không động thủ khi thấy kẻ khác qua mặt mình. Lúc đó nhà tôi đang ở cái chuồng bò, bác Đông trai cho quân ém quanh chuồng bò suốt đêm.

Ba không hề biết chuyện này. Cả hai lần đều không có gì xảy ra nên bác Đông trai cũng không cho ba biết, nguyên tắc nghề nghiệp không cho bác nói ra. Có thể cả hai lần chỉ là hoang báo, mấy ông nóng mặt vẫn hay xì ra mấy tin hiểm nghèo đó để dọa chơi. Có thể vì anh Bảy tôi đêm nào cũng ngủ ngồi ngoài chuồng bò nên người ta không thể đặt mìn được. Có thể họ đã phát hiện ra quân Lê Đông đã nằm ém quanh chuồng bò nhà Phạm Vũ rồi, đành phải lặng lẽ rút lui.

Tất cả chỉ là có thể, khó ai có thể nói chắc một điều gì. Xưa nay từ nóng mặt tới động thủ mười người có tới chín, nhưng động thủ tới sát thủ thì ngàn người may ra mới có một. May ra mới có một chứ không phải không có, cái khó của bác Đông trai là chỗ đó, bác không thể không cho ém quân bảo vệ ba cũng không thể nói trắng ra với ông chuyện khó nói này. Nói với người khác về những chuyện hiểm nguy không xảy ra với họ khác nào dọa dẫm, bác Đông trai không bao giờ làm.

Lần thứ ba bác Đông trai phải nói cho ba biết. Đãi ba món cháo lươn ớt cay xé lưỡi, món ăn sáng ông ưa thích, bác kể lại sự việc tối qua, không hề giải thích cho ba vì sao ông ở trong vùng nguy hiểm, vì sao bí thư tỉnh ủy lại biết. Bác Đông trai xưa nay vậy, chuyện tào lao bác rất lắm lời, có thể nói suốt ngày không biết chán, với công việc bác chỉ nói vừa đủ, không thiếu cũng chẳng thừa. Biết tính bác, ba không hỏi gì thêm , ông chỉ than bác đã làm ông sợ gần chết một đêm ròng. Lên tới chủ tịch tỉnh mới sợ một đêm đã kêu. Báo cho biết, từ nay ông phải sợ hãi suốt đời đó. Bác lên giọng trêu chọc. Suốt đời à? Ba hỏi. Ừ... suốt đời. Bác nói. Ba ngồi bần thần. Ông không dám nhìn thẳng mặt bác Đông trai hỏi thêm một câu nữa, liệu có cách nào thoát được nỗi sợ hãi ấy không?

Vẻ ngoài bác Đông trai hao hao ông giáo tiểu học, chẳng hề có dáng một công an, càng không có dáng một ông quan. Bác nhỏ thó gầy guộc, chưa khi nào nặng quá bốn chục cân, con người nhẹ tênh thé kia lại quản lý bà vợ to béo phốp pháp không dưới bảy chục cân và năm ông con trai to cao như năm phi công. Công an là ngành của những bộ mặt quan trọng trịnh trọng nghiêm trọng, chỉ cần lên chức hạ sĩ người ta đã có đủ các bộ mặt này rồi. Bác Đông trai thì khác hẳn, công việc cũng nhẹ tênh như người bác. Hết giờ hành chính bác nhét công việc vào sâu trong hộc tủ khóa kĩ, nhảy ra đời đi đá bóng đi đánh bóng bàn, đi cà phê đi uống rượu, đi xine đi tán gái...việc gì cũng nhẹ tênh.

Thứ bảy nào bác Đông trai cũng đánh xe từ Ô Lệ về Kô Long. Sau bữa cơm chiều ấm cúng với vợ con, bác tót sang nhà tôi tán gẫu chuyện tào lao với ba tôi. Giống ba, bác Đông trai ghiền nặng tiếng Pháp. Tới công sở bịt miệng khâu mồm không dám hở ra một tiếng đế quốc thực dân nào, cứ về tới nhà là bác Đông trai và ba vồ lấy nhau xổ ra hàng tràng tiếng Pháp, tán đủ chuyện trên trời tới biển kim cổ đông tây. Chuyện gì họ cũng cãi nhau. Hay cãi nhau nhất vẫn là chuyện thơ phú. Bác Đông trai rất thích thơ Aragon, ba chê thơ ông này vừa sáo vừa sến. Ba mê tít thơ Hàn Mạc Tử, bác Đông trai bảo đó là thơ của ông hâm.

Chỉ có rượu là họ nhất trí. Ba bảo rượu Kô Long ngon nhất nước bác Đông trai nhất trí liền, ba có bảo rượu Kô Long ngon nhất thế giới bác Đông trai cũng ừ luôn. Rượu say rồi họ đua nhau hát như gào. Hát cũng cãi nhau, ba tôi gào to bài Guitare d'amour bài hát xứ Tây Ban Nha, bác Đông cố đè bẹp giọng ca của ba tôi bằng bài Le plus beau tango du monde một ca khúc của nước Pháp, cuộc ca hát cứ thế ồn ào như vỡ chợ.

Tật ghiền tiếng Pháp của ba và bác Đông trai thành vấn đề của chính quyền. Ai có chút chức sắc đều phải chấp nhận có các đôi mắt phía sau bức vách. Từ khi ba là chủ tịch Thị trấn, nhà tôi bất kể là ngôi nhà ba gian hai chái hay cái chuồng bò đều có các con mắt sau các bức vách. Sáu giờ tối mắt rắn. Tám giờ tối mắt ti hí. Mười giờ đêm mắt vàng khè. Ba giờ sáng mắt thao láo... Mỗi lần bác Đông trai sang nhà tôi chơi lập tức có thêm một con mắt khác, một con mắt già nua nhợt nhạt, lòng trắng ngổn ngang những tia đỏ. Không nói ra bác Đông trai và ba tôi biết thừa đó là mắt của kẻ lấy tố cáo làmlẽ sống.

Báo cáo của cơ sở

Mỗi lần Lê Đông và Phạm Vũ nói chuyện riêng, họ đều nói tiếng Pháp. Chúng tôi biết chắc chắn họ nói tiếng Pháp vì có rất nhiều từ Le và La, trung bình có 300 từ Le và La mỗi lần họ gặp nhau. ( Có thể bị bỏ sót vì lắm lúc họ nói rất nhanh.)

Dù không hiểu họ nói gì nhưng chúng tôi biết trong các cuộc nói chuyện họ nhắc nhiều đến các nhân vật chính trị, lẫn lộn giữa vĩ nhân và phản động, ví dụ Hồ Chủ Tịch, Ngô Đình Diệm, Xtalin, Kennedy, Minh Mạng, Quang Trung, Lê Chiêu Thống... và một số nhân vật mà chúng tôi không rõ ta hay địch, ví dụ: Hàn Mạc Tử, Thế Lữ, Lưu trọng Lư, Nguyễn Du, Xuân Diệu v.v.

Bất cứ cuộc nói chuyện nào họ đều nhắc đến Hồ Chủ Tịch với thái độ không nghiêm túc. Họ vừa nói vừa cười, còn dám gọi Người là ông ta (il) (Họ gọi nhau là je, tu thì được nhưng gọi Người là il là hỗn láo).

Bên cạnh đó họ nhắc tới nhiều người Pháp, ví dụ: Apollinaire, Aragon, Victor Hugo, Dumas v.v. chúng tôi không rõ họ là ai, mật thám hay các đồng chí hoạt động cùng với Bác. Nếu là mật thám Pháp, có thể đó là các mật thám đã bắt Bác ở Hồng Kông. Nếu là các đồng chí Pháp, có thể họ tham gia đại hội Tours cùng với Bác. Dù những người Pháp đó là ai, việc nhắc tới họ khi chưa có chỉ thị hướng dẫn của cấp trên là manh động, sai phạm nguyên tắc Đảng.

Bác Đông trai và ba mất rất nhiều thời giờ giải thích cho lãnh đạo tỉnh vì sao họ nói tiếng Pháp và nội dung các cuộc nói chuyện bằng tiếng Pháp. Mỗi người viết 20 trang đánh máy khổ A4 tường trình về vấn đề này. Thực ra cả hai bản tường trình đều do bác Đông trai viết cả, tường trình là nghề của bác Đông trai. Bác đánh máy mười ngón, vừa đánh vừa tán chuyện vẫn không sai chữ nào, mỗi ngày bác đánh máy vài ba chục trang không có gì vất vả. Ba chỉ kí vào trang cuối cùng và tự tay gửi đi, thậm chí ông chẳng cần biết bác viết những gì trong đó.

Mất chừng nửa năm ba và bác Đông trai mới dẹp yên được vụ tiếng Pháp, mệt quá hai người hò nhau cai nghiện luôn món tiếng Pháp, quyết tâm cạo vỏ não cho hết bã tư sản. Bác Đông trai chỉ quyết tâm “cạo” trong các bản kiểm điểm mà thôi. Ba thì khác, ông thực lòng cố cạo cho hết thật. Bảy năm theo học các trường phổ thông Pháp- Việt bã tư sản có một nhúm, ba bền bỉ cạo mấy năm trời. Thỉnh thoảng bác Đông trai ghé tai ba hỏi ghẹo. Đã cạo xong chưa? Ông không cạo thật à? Ba trợn mắt lên. Cạo chứ. Bác tủm tỉm rỉ tai ba. Cạo như tôi người ta mới tin, cạo như ông càng cạo người ta càng nghi ngờ. Ba cười nhạt không tin. ông không tin à? Bác hỏi. Ba mặt thộn không biết nói sao, ông sợ đó là sự thật.
Cả sự thật bác Đông trai nói tại quán cháo lươn ba cũng sợ. Ba không thể tin nổi có kẻ đang tâm hạ thủ ông chỉ vì ông đã “leo nhanh quá”. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Bác Đông trai vỗ vai ba nói. Bác phá lệ xổ ra một câu tiếng Pháp. Éviter les ennemis, puis rencontré Camarades... Ba rụt cổ không dám đáp trả bằng thứ tiếng “phản động” đó. Rứa là răng? Ba hỏi. Bác không trả lời vội, húp một hơi hết bát cháo lươn mới ngẩng lên nói. Thời trước cực khổ mới đấu tranh giành được thời này, hóa ra thời này còn cực hơn. Ba tôi vẫn không hiểu. Rứa là răng? Ba hỏi. Hai mắt bác Đông trai đỏ hoe, chẳng biết vì ớt cay hay vì chính điều bác vừa nói. Ba hỏi một lần nữa. Bác lầm bầm nói như nói với bác. Thời này cực lắm, trước mặt kẻ thù, sau gáy chiến hữu. Thìa cháo lươn trong miệng ba đắng ngắt, ông nuốt không nổi.

Trong nháy mắt ba ngẩng lên không thấy bác Đông trai đâu nữa, như là bác biết tàng hình. Ngồi chờ lâu không thấy bác, ba trả tiền rời quán cháo lươn, thong thả đi bộ về Ủy ban tỉnh. Đi chừng vài trăm thước ba thấy xe bác Đông trai sau lưng, bác nhô đầu ra cười toét. Lên đi! Ba lên xe. Ông chạy đi đâu đấy? Ba hỏi. Có xe người quen đi qua, tôi không muốn người ta trông thấy tôi gần gũi với ông. Người quen là ai? Bác khịt khịt mũi không đáp, cứ khi nào khó nói bác lại khịt khịt mũi. có phải chiến hữu không? Ba lại hỏi. Bác ngân ngừ giây lát rồi gật đầu. Ừ... chiến hữu. Éviter les ennemis, puis rencontré Camarades...Bác Đông trai chưa nói xong gáy ba đã lạnh toát. Ông đưa tay sau gáy tóm đúng một nắm ruồi xanh.

Đêm ngủ ba không dám nằm sấp nữa, hễ nằm sấp ông lại thấy lạnh gáy, thể nào cũng túm được một nắm ruồi xanh. Sáng sau ba gọi điện kể lại cho bác Đông trai, bác khịt khịt mũi không bình luận gì. Bác không muốn nói cho ba biết, có một kế hoạch bảo vệ ba do đích thân bác phụ trách. Bác không rời ba nửa bước, bác bận việc sẽ có người của bác bám theo. Ba không hiểu bác Đông trai làm việc này vì nhiệm vụ trên giao hay chỉ là trách nhiệm bạn bè. Hỏi thì bác cười. Tôi bám theo ông không được sao? Ba cũng không hỏi nữa,
ông hiểu tấm lòng của bác.

*

Ba quan hệ rộng, chơi bời đàn đúm cũng nhiều, bạn bè có tới vài trăm, ít ai chí thiết được như bác Đông trai. Bác chỉ là hàng xóm của ba, gần ngõ xỏ sân, chơi bời lâu ngày thành thân thiết, ngoài ra không hề có một quan hệ nào khác. Không bạn nối khố, không bà con họ hàng, không đồng môn đồng tuế nhưng bác đã sát cánh bên ba, hết lòng với ông về mọi chuyện ở đời. Như dị nhân Kiểm Hát, bác cũng là thiên sứ trời sai xuống giúp ba. Mỗi khi ba cần, từ cái đinh mắc áo tới cái ghế quyền lực giúp được là bác giúp tất, “Không sờn lòng không tiếc tuổi xuân”. Bác không cần ở ba một lời nhờ cậy hay cảm ơn nào hết, tính bác vốn vậy, đã giúp nhau khỏi cần phải “vì sao” và “như thế nào”.

Bác Đông trai rất thích tôi, bác Đông gái cũng thế. Không hiểu sao, có lẽ trời xui vậy. Mỗi lần bác Đông trai sang nhà tôi, câu đầu tiên bác hỏi, cu Quang mô rồi? Tôi chạy ra, bác búng nhẹ mũi tôi nói, thằng ni được! Và bế tôi lên cho ngồi lên đùi, bốc một nắm kẹo cho tôi ăn. Những ngày nhà tôi ở chuồng bò đói rách lầm than, đó là một đặc ân.

Nhà tôi lúc này không thiếu thứ gì, theo nghĩa nhà giàu Thị trấn có thứ gì nhà tôi có thứ đó. Ngày trước nhà tôi lúc nào cũng vậy, cá thịt chỉ để mút, còn đường sữa đến mút cũng chẳng được. Tôi nhớ mãi mình đã ăn sữa như thế nào. Chị Hai thò ngón tay vào lon sữa quệt nhẹ. Tôi mút ngón tay ấy, phần còn lại là của anh Sáu. Nếu tôi mút sạch anh Sáu chẳng được tí gì, nên chị Hai thò ngón tay thật nhanh vào miệng tôi và rút ra cũng thật nhanh. Tôi đủ khôn để níu giữ tay chị Hai cố mút cho bằng hết, mặc cho anh Sáu vừa chửi vừa đá đít.

Tôi sướng hơn các anh chị trong nhà nhờ ở gần nhà vợ chồng bác Đông, được ăn chực thường xuyên hai bác. Có miếng gì ngon bác Đông gái đều dành cho tôi. Thằng ni đẻ vào cung ăn chực. Mạ vẫn đùa trêu tôi. Nhà nhiều lúc thiếu bữa, riêng tôi lúc nào cũng no đủ nhờ kho thực phẩm luôn dồi dào của bác Đông gái. Tôi ăn no, ngủ luôn nhà ở bác. Mới một tuổi bác Đông trai đã bế tôi sang ngủ với hai bác. Thực ra là ngủ với con Lu nhà bác. Các anh chị tôi ghen tị với tôi lắm. Thấy cái mặt phởn của tôi họ nguýt ngang nguýt dọc, nhọn mồm trêu chọc tôi. Ê ê đồ ngủ với chó. Tôi chẳng thấy xấu hổ khi ngủ với con Lu cả, nó là con chó thông minh đáng yêu.

Con Lu thuộc giống chó Phú Quốc, quê bác Đông gái. Nó có cặp mắt nâu tươi sáng, bộ lông nâu thật mượt, trên sống lưng có ba vòng xoáy thật đẹp, chỉ dấu chó Phú Quốc. Theo cha ra Bắc làm ăn, bác Đông gái nuôi giấu Việt Minh và lấy luôn Việt Minh, đó là bác Đông trai. Cuộc chiến tranh Nam Bắc triều lần thứ 3 này buộc bác Đông gái phải ở lại quê chồng, nhờ có con Lu bác đỡ nhớ quê. Vợ chồng bác coi con Lu như đứa con út, gọi nó là con xưng là ba me, cho nó ngủ chung giường với họ. Mỗi tội khi hai bác thức dậy vui vẻ nó cũng vui vẻ thức dậy theo. Nó trương mắt nhìn rất mất dạy làm hai bác mất cả hứng. Phát hiện con Lu thích tôi, bác Đông gái dụ tôi ngủ lại nhà bác. Đêm nào tôi ngủ lại, hai bác cho tôi ngủ với con Lu một giường riêng, tôi và nó coặp nhau đánh một giấc cho tới sáng, mặc hai bác muốn làm gì thì làm. Hai bác mừng lắm, coi tôi như quí nhân phù trợ.

Nhiều đêm ngủ lại nhà bác Đông tôi phát hiện cái sự ngủ của ba mạ khác hẳn với vợ chồng bác. Ba mạ cứ lên giường là ngủ, mỗi người một góc làm như không quan tâm đến nhau. Chả biết có ngủ thật hay không, thấy ba mạ ngủ sì sì, chẳng ai nói chuyện với ai. Khi nào đang đêm ba mạ vùng dậy nói chuyện là họ có chuyện để cãi nhau. Vợ chồng bác Đông thì ngược lại, họ nằm gác chân lên nhau nói đủ chuyện trên trời dưới biển quá nửa đêm mới ôm nhau ngủ, ít khi nào họ lên giường là ngủ ngay.

Trong các câu chuyện của họ thỉnh thoảng tôi nghe họ nhắc tới ba. Một đêm tôi nghe bác Đông gái hỏi bác Đông trai về ba. Anh Vũ sao rồi? Ôi chà... khó nói lắm. Tôi vểnh tai lên. Tưởng con Lu ngủ rồi, hóa ra nó còn thức, nó cũng vểnh tai lên. Bác Đông gái ngáp dài. Sao lắm kẻ tiểu nhân tới mức không hiểu nổi à nha. Ai? Bác Đông trai hỏi. Bạn anh chứ ai! Bác Đông gái nói. Con Lu nhìn tôi hỏi, có phải ba mày không? Tôi vằn mắt lên, còn lâu! Tôi và con Lu nằm yên nghe bác Đông trai kể về ông bạn của bác, bác gọi ổng là ngài.

Bác Đông trai kể. Bác với ngài là bạn nối khố , thân nhau như hình với bóng. Ngài học rất dốt, láu nhất lớp nhưng dốt nhất lớp, bác phải ra tay cứu ngài nhiều lần, bài vở trong lớp bài vở về nhà bác đều lo cho ngài. Nhờ thế ngài không phải đúp lớp nào. Ngày xưa đi học được lên lớp là mừng lắm rồi. Cứ lên một lớp ngài rưng rưng ôm lấy bác. Không có mi tau rớt thẳng cẳng từ lâu. Ngài nói. Tụi mình thương nhau nghe. Ngài lại nói. Bác rớt nước mắt ghì chặt lấy ngài.

Tốt nghiệp primaire bác đỗ đầu, bài luận tiếng Pháp của bác điểm cao nhất tỉnh. Trường thưởng, huyện thưởng, tỉnh thưởng. Riêng kẹo bánh hai đứa ăn suốt tuần không hết. Tau tự hào về mi quá. Ngài cảm động ôm lấy bác. Buổi tối đi chơi, bác bị hòn gạch chần sau gáy ngất xỉu đi. Tỉnh dậy bác thấy mình nằm trong nhà thầy hiệu trưởng, thấy luôn ngài đang bị trói ở cột nhà. Nào ngờ chính ngài là thủ phạm. Bác không tin, cho là thầy hiệu trưởng bắt nhầm. Mãi sau bác thấy thầy hiệu trưởng nói với ngài, (hình như đã thầy đã nói với ngài nhiều lần rồi). Em đánh bạn thế lỡ bạn chết thì sao? Thầy hỏi. Ngài cười hắt lên không đáp, cái cười làm bác lạnh xương sống.

Ối trời ơi, kì vậy ta? Bác Đông gái hoảng hồn kêu to. Tôi nhìn sang con Lu hỏi, tin được không? Con Lu vếch mõm lên, tin!

Chuyện con nít cho qua, chuyện này mới đáng sợ này. Bác Đông trai nói. Con Lu khều nhẹ chân tôi ra hiệu im lặng. Bác Đông trai kể. Đánh nhau ở núi Ngung, trung đội Việt Minh do ngài làm trung đội trưởng không thể cự nổi một tiểu đoàn lính lê dương thiện chiến. Cả trung đội chết sạch, mình bác sống sót. Sau bác phát hiện ra ngài cũng còn sống. Vào lúc bác lùi xuống suối tính đường rút lui, bất ngờ thấy ngài bị thương nặng nằm vùi trong lá rừng. Bác mừng quá cõng ngài chạy nhanh ra khỏi trận địa. Lát sau pháo dập tơi bời, số hy sinh nằm lại đấy không ai còn nguyên xác. Bác cõng ngài đi xuyên rừng tới rạng sáng mới về tới đơn vị, ngất đi trước cửa trại. Ngài mất máu nhiều, may đơn vị tiếp máu kịp thời, cứu sống được. Rời khỏi trạm xá ngài ôm bác cảm ơn rối rít. Không có mi tau tan xác pháo rồi. Hai thằng ôm nhau nức nở khóc. Từ nay sống chết có nhau nghe. Ngài khóc nói. Ừ ừ... từ nay sống chết có nhau Bác cũng khóc nói.

Sau trận đó bác Đông trai được cấp trên khen thưởng, lên chức vù vù, từ anh lính trơn lên tới tiểu đoàn phó. Ngài thì vẫn trung đội trưởng. Một hôm xuống suối tắm, bác vừa bước xuống suối bỗng một phát súng sau lưng, cái tai bác rách bươm, ngoảnh lại thấy ngài đang cầm súng cách chừng không đầy chục bước. Ngài vứt súng ôm lấy bác kêu lên. May không tau giết mi rồi Đông ơi! Ngài nói lau súng thì bị cướp cò. Sáng sớm ai đi lau súng, có lau thì ngồi ở lán, chẳng có ai vác súng ra bờ suối ngồi lau cả. Bác không nói gì chỉ cười thầm mừng mình thoát chết, từ đó bác tìm cách tránh xa ngài. Bác Đông trai chuyển sang ngành công an cũng từ đó.

Ôi trời ơi, kì vậy ta. Bác Đông gái run cầm cập, cứ như vừa thấy kẻ thủ ác tới giết chồng mình. Tôi nghe chuyện này quen quen, giống chuyện ba với Thủ trưởng quá. Tôi nhổm dậy đá chân con Lu hỏi, ngài là ai? Con Lu trợn mắt lên, mày hỏi tao, tao biết hỏi ai!

Tối hôm đó tôi chìm trong những giấc chiêm bao đầy tiếng sủa của con Lu.

*

Tôi ba tuổi chưa phải đi học. Tôi không muốn chui vào lớp mẫu giáo ở đình làng. Các cô mẫu giáo cùng với ông Chủ tịch Thị trấn ra sức vận động tôi đến lớp mẫu giáo. Sự có mặt con ông quan đầu tỉnh trong nhà mẫu giáo là cực kì quan trọng, giúp họ xin được kinh phí dễ dàng. Mạ ra sức khuyên nhủ tôi đi mẫu giáo, tôi một mực nói không. Tôi không thích chui vào nơi suốt ngày chỉ có múa hát ăn và ngủ, cái gì cũng răm rắp. Múa cũng răm rắp, hát cũng răm rắp, ăn cũng răm rắp, đến ngủ cũng răm rắp. Tôi không thích sự răm rắp của nhà mẫu giáo, cũng như sau này tôi không thích sự răm rắp của trại lính tuy phải chui vào đó bốn năm. Tóm lại tôi ghét mọi sự răm rắp, răm rắp cần thiết hay răm rắp phi lý thì cũng là răm rắp, tôi đều chối bỏ.

Tôi chối bỏ nhà mẫu giáo và bám chặt chiếc com măng ca của ba. Vốn rất nghiêm khắc với con cái, không ngờ ba đồng ý. Có lẽ ông muốn khoe con. Thằng con của ông mới ba tuổi đã biết làm thơ, tính nhẩm rất nhanh bốn phép tính dưới 20, chủ nhân vô số những bức tranh ngộ nghĩnh và đối đáp ngon lành với người lớn, đã trở thành niềm tự hào của ba tôi. May thay ông không bắt tôi phải diễn trò thần đồng trước mặt mọi người. Ông khéo léo để cho tôi trổ tài khi nào tôi muốn và làm như chẳng có gì đáng kể, các con ông đều vậy cả.

Thoát được sự răm rắp của nhà mẫu giáo, thoát luôn những trò diễn thần đồng và được cùng chiếc com măng ca rong ruổi trên mọi nẻo đường, đi tới đâu cũng được đón rước chào mời như một ông vua con, tôi không mong gì nhiều hơn thế. Nhờ tôi được theo ba tôi, con Lu cũng được theo bác Đông trai, ba nó. Tôi đi vắng, vợ chồng bác Đông trai sợ con Lu ở nhà một mình buồn, đành cho nó theo bác Đông trai vào tỉnh chơi với tôi, cuối tuần về với bác Đông gái. Con Lu biết ơn tôi hết mực, không có tôi đừng hòng bác Đồng gái cho nó rời khỏi nhà. Thế là tôi và con Lu bên nhau trên từng cây số, hết đi xe ba lại nhảy sang xe bác Đông trai.
Tôi và con Lu được ưu tiên ngồi ghế trước. Tôi thích nhìn phía trước, con Lu thích nhìn vào gương chiếu hậu. Chẳng thấy có gì hay ho trong gương chiếu hậu cả, thế mà con Lu nhìn suốt ngày không biết chán. Nhiều lần vì kính chiếu hậu chúng tôi cãi nhau. Thấy một ai đó sắp lao vào đầu xe, tôi hoảng hốt kêu lên. Con Lu vẫn không rời mắt khỏi kính chiếu hậu, không hề quan tâm đến nỗi sợ hãi của tôi. Hình như nó coi mấy vụ sắp lao vào đầu xe là việc của những kẻ đáng chết. Tôi thì thấy việc con Lu cứ dí mắt vào kính chiếu hậu là vớ vẩn và vô nghĩa hết sức. Tôi đưa mắt lườm con Lu, có gì trong kính chiếu mà nhìn kinh thế? Nó nhìn tôi vẻ coi thường, mày không thấy gì sao? Tôi nhổm lên nhìn, đấy là những gì xảy ra trước mặt bây giờ lùi về phía sau, thế thôi. Có gì đâu? Nó nhìn tôi cười cười, mày ngu lắm. Tôi tức phát điên muốn đá cho nó một phát.

Mãi rồi tôi thấy con Lu có lý. Có cái gì đó rất nguy hiểm đằng sau xe ba và xe bác Đông trai. Một lần ngồi trên xe bác Đông trai, xe trong Thị xã đông đúc người qua lại, bỗng con Lu nhảy lên sủa vào gương chiếu hậu. Chẳng hiểu con Lu tính làm trò gì tôi buồn cười nhổm lên búng tai nó, mày điên rồi. Con Lu ngoái lại tức giận, mày ngu lắm! Tôi chực chồm lên quát vào mặt nó, mày ngu thì có, chợt thấy cái com măng ca quen quen. Con Lu sủa dữ dội, mặt bác Đông không biến sắc, bác nhếch mép cười. Con Lu vẫn sủa. Ngồi xuống đi Lu! Bác quát khẽ nó. Con Lu ngồi xuống, bác đánh tay lái quẹo sang phải. Gương chiếu hậu phản chiếu đít xe com măng ca. Lúc này tôi thấy cái biển hiệu 2211 sau đít xe com măng ca, con số quá dễ nhớ đối với đứa bé ba tuổi như tôi.
Tối về tôi trằn trọc không yên. Chập chờn con số 2211 cứ nhảy múa trước mắt tôi. Có tiếng đổ vỡ ở gác trên nghe vang to như tiếng mìn nổ, tôi giật mình tỉnh dậy, ba đang ngồi im lìm hút thuốc sau cửa sổ. Tôi bò tới sau lưng ông. Ba ơi xe 2211 là xe của ai? Ba không đáp. Tôi sợ ba buồn, ông sợ con cái ông phải khôn trước tuổi, nên thôi. Tôi nằm khoanh tròn như con Lu sau lưng ba, lắng nghe tiếng thở của ông, tiếng thở rất lạ, vừa sợ hãi vừa chán ngán.
Thứ bảy tôi theo bác Đông trai về Thị trấn Kô Long. Ba không được nghỉ cuối tuần, ông phải ở lại họp thường vụ đột xuất. Chẳng sao cả, đi xe bác Đông trai vẫn thích hơn ngồi xe ba, khỏi phải bị nhắc nhở mắng mỏ, thói quen đáng ghét của mấy ông bố yêu con. Bác Đông trai cầm lái, bác lái xe rất lụa huýt sáo cũng rất hay. Ba không biết lái xe, huýt sáo thì dở ẹc. Ba thường nhăn nhó cau có về những chuyện không đâu, trái lại bác Đông trai lúc nào cũng nhẹ tênh bất kể có chuyện gì. Mỗi lần lên xa cầm tay lái bác như được rơi vào vùng tự do, bác vừa lái xe vừa huýt sáo thoải mái thư thái vô cùng, dường như cuộc đời chẳng có gì phải lo nghĩ. Thực ra bác lo nghĩ rất nhiều mà không ai biết.

Cách đây ít lâu bác Đông gái cho ba xem một nghìn trang bác Đông trai báo cáo về ông. Đây là tài liệu duy nhất bác Đông trai cất bản gốc ở nhà, bác sợ để ở cơ quan có kẻ lẻn vào nhét vào vài chục trang đánh máy thì khốn. Để làm sạch lý lịch cho ba, chuẩn bị cho ông tiến tới vị trí dưới một người trên muôn vạn người, bác Đông trai viết cả nghìn trang báo cáo. Ba đọc một tuần mới xong, ông ngạc nhiên không biết bằng cách nào bác Đông trai lại có những tài liệu chính ông cũng không nhớ. Ông không thể tin được để có nghìn trang tài liệu này bác Đông trai chỉ mất chừng sáu tháng.
Bác Đông trai tường trình đủ thứ liên quan đến ba, về dòng họ Phạm từ ông tổ Phạm Lá tới chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ cả thảy 14 đời, lý lịch hai đại tư sản Phạm Vĩ và Phạm Phú Huệ, những đóng góp của Phạm Vĩ cho Việt Minh, vì sao Phạm Phú Huệ bỏ trốn trước ngày cải cách, lý lịch mạ và họ ngoại, lý do Phạm Vũ được Phạm Vĩ nhận làm con nuôi, quan hệ của Phạm Vũ với nhân vật có số má ở triều đình, sự tích cái bịch vàng hai trăm cây, quan hệ của ba và lý lịch của 43 cô bồ nửa nắng của ông, về các vụ việc xảy ra ở Thị trấn Kô Long từ 1946-1956, thời kì ba làm chủ tịch Thị trấn. Riêng việc trả lời 31 câu hỏi của Thủ trưởng nghi vấn Phạm Vũ, bác Đông trai đã viết hết 242 trang.

Cả nghìn trang đánh máy A4 hơn bốn chục vạn từ, không một chữ nào chống lại ba. Đọc xong ba đã bật khóc, ông không thể ngờ. Ba nhớ từ năm 1936 khi ông cưới vợ, ông bác Vĩ cất cho ngôi nhà ba gian hai chái sát ngay nhà vợ chồng bác Đông, hai người là hàng xóm của nhau, trở thành bạn bè chí thiết, gần ba chục năm qua chỉ có vợ chồng bác Đông giúp đỡ nhà tôi, ngược lại thì không có, hoàn toàn không. Ba không hề giúp bác Đông trai được một chuyện gì, đơn giản vì bác Đông trai chưa bao giờ cho ai biết bác khó khăn thế nào, cần giúp đỡ ra sao. Ngay cả việc giúp cho người khác bác cũng không nói ra, bác chỉ cần trời biết chẳng cần ai biết.

Chiều thứ bảy thênh thang, bác Đông trai một mình một trên đường quê vắng vẻ. Có cả tôi và con Lu đi cùng. Chúng tôi đứng ngồi bên nhau vừa ngắm cảnh vừa nghe bác Đông trai huýt sáo và hát. Món ca khúc con Lu ngốc xịt. Bác Đông trai hát, Qua miền Tây Bắc ta phá đồn giặc tan... Tôi reo lên, A... bài “Qua miền Tây Bắc”. Con Lu không chịu ngốc hơn tôi về bất kì chuyện gì. Nó hất mũi lên, éo phải. Tôi nói, rứa mi nói bài chi? Nó cứ hất mũi lên không thèm trả lời, cái mặt vênh vênh tự đắc đáng ghét. Bác Đông trai hát, giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về...Câu đó ai nghe cũng biết là bài nào. Tôi reo lên, A… bài “ Giải phóng Điện Biên!”, nó quay lại nhìn tôi vẻ coi thường, cái mũi đáng ghét lại hất lên, giải phóng cái đầu mày ấy! Tức chết được.

Xe qua đèo Ré hoàng hôn cũng vừa tắt, bác Đông trai thôi không hát nữa, chỉ huýt sáo. Những ca khúc tiền chiến gọi là nhạc vàng, cấm hát. Không được hát thì bác huýt sáo. Đèo Ré dốc và ngoắt ngoéo, đi quen rồi bác Đông trai thấy bình thường, bác vẫn huýt sáo say sưa. Riêng con Lu tỏ ra căng thẳng, nó dí mắt vào kính chiếu hậu. Tôi hích vào hông con Lu, bác Đông đang huýt sáo bài “ Buồn tàn thu” đấy! Con Lu quay ngoắt trừng mắt lên, câm mồm! Tôi nhìn ra kính chiếu hậu đèn pha xe đi sau chiếu vào sáng lóa. Con Lu sủa vang lên, vừa sủa vừa nhảy chồm chồm. Bác Đông trai ngừng huýt sáo, mắt bác có những tia sáng lóe lên.

Bác Đông trai cho xe sang trái nhường cho xe sau vượt lên. Con Lu vẫn sủa inh ỏi. Bác Đông trai thò tay vào cốp xe lấy khẩu súng côn. Tim tôi lạnh ngắt. Xe sau đang vượt dần lên, tôi gần như nghẹt thở. Tôi sợ xảy ra màn đấu súng. Con Lu ngốc xịt vẫn sủa nhặng. Mặt bác Đông vẫn bình thản, tay phải bác vẫn siết chặt khẩu súng côn bên hông. Xe sau vượt qua, cái biển xe 22 11 lóe sáng trước mặt tôi. Bác Đông trai nhếch mép cười, đột nhiên bác cất tiếng hát vang. “Thủ trưởng của chúng ta/ tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long/ Ơi đồng đồng chí có biết không / Tình yêu Thủ trưởng mênh mông muôn trùng…”.

Đó là bài gì? Con Lu cào cào chân tôi hỏi. Không biết.Tôi thật thà lắc đầu. Bốn chục năm sau tôi mới biết đó là bài hát của chị Hiên. Lúc này tôi hoàn toàn mù tịt. Con Lu hếch mũi vẻ coi thường. Tôi không thèm chấp. Nó là giống chó biết gì. Tôi đâu có nhiệm vụ nhớ hết những bài hát mà ba và bác Đông trai vẫn hay hát.

Thủ trưởng của chúng ta/ tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long/ Ơi đồng đồng chí có biết không / Tình yêu Thủ trưởng mênh mông muôn trùng…”. Bác Đông trai lại hát. Nghe như bác đang khóc cười chua chat chứ không phải hát. Tôi và con Lu chỉ biết nhìn nhau.

Về nhà bác Đông hơn bảy giờ tối. Tôi ăn uống no nê rồi lăn ra ngủ. Con Lu không buồn ăn, nó nằm ôm chặt tôi, tim nó đập thình thình.

*
Sáng ra thức dậy tôi không thấy con Lu đâu, định thần một lúc tôi mới nhận ra đây là nhà mình. Lạ quá, rõ ràng tối qua tôi ngủ với con Lu ở nhà bác Đông, có ai bế tôi về nhà? Tôi lò dò ra khỏi buồng. Nhà không có ai, tôi chạy ra sân vẫn không thấy ai. Một lúc sau anh Tám anh Chín rật rật chạy về thi nhau nói. Bác Đông trai chết rồi! Anh Chín nói. Chưa chết! Bác Đông trai chỉ đột quị thôi chứ chưa chết. Anh Tám nói. Chết rồi. Đột quị là chết. Anh Chín cãi. Anh Tám đá đít anh Chín. Ê ê... ngu ngu, đột quị mà chết, ai nói mi? Mạ nói. Nghe nhắc tới mạ, anh Tám tịt không dám nói gì.

Tôi chạy tới nhà bác Đông. Nhà sập cửa không thấy ai. Một vài người lớn đứng trước cửa kháo chuyện, các vẻ mặt đều nghiêm trọng. Mạ hớt hãi chạy đi tìm tôi, bà bế xốc tôi chạy thẳng một mạch về nhà. Tôi mới biết bác Đông trai bị đột quị lúc ba giờ sáng, bác Đông gái đưa thẳng ngay bệnh viện tỉnh, vội vàng đến nỗi quên cả tôi và con Lu. Mạ chạy sang đón tôi về nhà, đưa cả con Lu về theo. Con Lu lẻn trốn đi, nó chạy thẳng một mạch về Thị xã Ô Lệ.

Tôi chạy ra ngõ ngóng con Lu, mạ nói thế nào tôi cũng không chịu vào nhà. Tôi sợ nó bị lạc, từ đây vào Ô Lệ bốn chục cây chứ không ít, lâu nay nó chỉ ngồi trên ô tô có tự đi lần nào đâu. Nếu con Lu không bị lạc cũng dễ bị bắt trộm, giống chó Phú Quốc ngon nổi tiếng, bọn trộm chó thời nào cũng đông như quân Nguyên. Bốn giờ chiều con Lu chạy về. Lu Lu! Tôi đứng trước ngõ chạy ra kêu to. Con Lu chồm lên bíu chặt lấy tôi, nước mắt dàn dụa. Nó khóc.

Một giờ sau một đoàn xe dài chạy về nhà bác Đông. Xe đi đầu chở quan tài bác Đông trai, trên xe có bác Đông gái, bác ngồi chết giấc, cứng đơ như tượng. Ba tôi cùng thường vụ tỉnh ủy theo về, ông làm chủ tang bác Đông trai. Thường vụ tỉnh ủy đang họp nghe tin cấp báo bác Đông trai bị tai biến, vội vàng bỏ họp chạy sang bệnh viện tỉnh thì bác đã đi rồi. Ba tôi gặp riêng bác sĩ trưởng kíp cấp cứu hỏi. Có đúng đồng chí Lê Đông bị tai biến hay không? Dạ đúng. Bác sĩ khẳng định. Tai biến…ở đâu? Ba hạ giọng hỏi nhỏ. Bác sĩ mắt trước mắt sau run run nói. Dạ... sau gáy.

Ba giật thót như có ai túm tóc giật ngược, mồ hôi lạnh tóa ra ướt sũng áo ông.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét