Trịnh Thu Tuyết
Dù đã nghe nhà văn giới thiệu trước: cuốn sách rất cần cho
giáo viên, học sinh khi muốn "kịch bản hoá" các tác phẩm văn học
trong nhà trường, một thủ pháp quan trọng trong quá trình tiếp nhận văn học một
cách chủ động, tích cực, nhưng vẫn có cảm giác băn khoăn của người ngoại đạo,
nhất là khi đọc dòng chữ dưới nhan đề:" Cuốn sách không thể thiếu cho những nhà biên kịch"! Và quả thật,
vì tính chất "dạy nghề" nên đọc cuốn sách này không hề dễ, nó không
cuốn hút như khi đọc tác phẩm văn chương, nhưng sau mỗi trang, mỗi mục, lại thấy
ngạc nhiên vì sự minh triết, giản dị, dễ hiểu đến mức có cảm giác rất ngây thơ
thường thấy ở những người tuyệt đối ngoại đạo, đó là khi cuốn sách khép lại,
người đọc nó sẽ bắt tay vào xây dựng ngay một kịch bản phim truyện(!).
Sự minh triết, mạch lạc hiện ngay trong cấu trúc tổng - phân
- hợp của cuốn sách gồm 10 mục, trong đó mục "Nhập môn" có thể coi là
phần dẫn luận mở đầu, đặt vấn đề / 7 mục sau đó, từ "Xây dựng ý tưởng",
"Xây dựng chuyện phim", "Cấu trúc ba hồi", "Xây dựng
nhân vật", "Tạo cảnh", "Thoại" tới "Soạn thảo văn
bản" thực chất là giải quyết vấn đề đặt ra trong tiêu đề cuốn sách: con đường
"trở thành nhà biên kịch phim truyện" / hai phần IX "Lời cuối"
và X "Kịch bản tham khảo" chính là đoạn kết đầy thuyết phục khi người
đọc được chia sẻ cảm nhận của một trong những biên kịch thành công sau khi học
theo lý thuyết của tác giả cuốn sách, và nhất là được tác giả thị phạm khi đối
chiếu giữa truyện ngắn Đảo của dân ngụ cư
( Đỗ Phước Tiến) với kịch bản Đảo của dân
ngụ cư ( Nguyễn Quang Lập). Một cấu trúc chặt chẽ, chắc chắn và thuyết phục,
đó cũng là cấu trúc mà giáo viên thường dạy học trò khi viết bài văn với mở -
thân - kết, viết đoạn văn với tổng - phân - hợp; một cấu trúc thậm chí xuất hiện
trong bất kỳ một văn bản nào, dù là viết hay nói, dù chỉ là gọi một cuộc điện
thoại!
Khi toàn bộ cuốn sách được đọc và tiếp nhận theo góc nhìn của
một giáo viên văn, lập tức tôi thấy tính hữu ích của nó qua những bắt gặp/ đối
chiếu và liên tưởng ứng dụng với quá trình dạy và học văn ở trường phổ thông!
Ngay trong mục "Nhập môn" đầu tiên, sự bắt gặp đã
rất thú vị khi tác giả phân biệt khá rạch ròi giữa phông văn hoá và kỹ năng
thông qua so sánh " việc đan rổ"
với "văn hoá rổ": "...tôi không dạy về văn hoá rổ, tôi chỉ bày
cho các bạn cách đan rổ. Nếu chỉ biết mỗi văn hoá rổ, bạn sẽ không bao giờ biết
đan rổ, nhưng nếu chỉ chúi mũi vào đan rổ mà không quan tâm tới văn hoá rổ bạn
sẽ rất khó đan được một cái rổ đẹp"! ( tr. 8). Bất kỳ nghề nào cũng có
thể nhận được bài học quý giá từ quan niệm này, vì bất kỳ công việc nào cũng cần
đồng thời cả văn hoá và kỹ năng. Nhưng nếu cuốn sách - giáo trình nghề của tác
giả Nguyễn Quang Lập hướng tới kỹ năng thì công việc của giáo viên dạy văn luôn
là sự kết hợp đồng thời cả hai yếu tố đó, thậm chí không thể tách rời.
Những việc cần làm của các nhà biên kịch tương lai được nêu
ra trong phần "Nhập môn" ( xem phim nhựa và viết hàng ngày) cũng là
những việc người dạy văn và học văn cần làm, tất nhiên phải thay đổi chút cho
hợp nghề: đọc và viết! Quan niệm:" ...
nhà văn và nhà biên kịch là những phu chữ, đến giờ đào bới bốc vác chữ nghĩa, hết
giờ đi nghỉ, đừng nằm chờ hứng như Đại Lãn nằm chờ sung" ( tr. 10)
chính là bài học cho đọc / học/ ghi chép/ luyện viết bài phân tích, cảm thụ văn
chương; bài học đã được Azit Nexin nhắc tới trong truyện ngắn Nếu không có ruồi!
Phần so sánh phim truyện
điện ảnh với phim truyền hình đặc biệt gây hứng thú cho việc phân loại trong
quá trình tiếp nhận, cảm thụ văn chương - sự phân loại không chỉ dừng lại ở thể
loại ( tranh cổ động/ tranh nghệ thuật; diễn ca/ thơ...) mà ở mức độ cao hơn,
có thể còn hữu ích cho việc phân biệt văn chương và văn chương minh họa, thơ ca
tuyên truyền và thơ ca nghệ thuật ( những tiêu chí phân loại khá nhạy cảm một thời!).
Giá trị của một tác phẩm văn chương sẽ được học trò nhận thức
minh triết hơn khi áp dụng tiêu chí phân loại mang tính đẳng cấp của ngôn ngữ
nghệ thuật trong hai loại phim truyền hình và phim điện ảnh: giống như "ngôn ngữ phim truyền hình thường đơn
giản, dễ hiểu, trực chỉ" (tr. 14), những đoạn thơ như " Điều quân chiến dịch Thu Đông- Nông thôn
phát động, giao thông mở mở đường - Giữ đê, phòng hạn, thu lương - Gửi dao miền
ngược, thêm trường các khu" ( Việt Bắc - Tố Hữu) nên hướng tới việc chỉ
ra tính "biên niên sử" hơn là cố gắng cùng học trò khám phá giá trị
nghệ thuật; ngược lại, khi tới với những hình tượng thơ sâu sắc, linh diệu
trong Đây thôn Vĩ Dạ, Tây Tiến...,
giáo viên cần giúp học trò biết đọc ra những tầng nghĩa hàm ngôn giữa những khe chữ, tìm ra phần chìm
của " tảng băng trôi" ( chữ
của Hemingway), tựa như khám phá " ngôn
ngữ phim điện ảnh nhiều công phu, nặng về tu từ, ý tại ngôn ngoại" (
tr. 14).
Toàn bộ phần chính của cuốn sách là những hướng dẫn cụ thể,
sinh động cho quá trình biên kịch một tác phẩm phim truyện - điều đáng ngạc
nhiên nhất là tất cả những công việc trong quá trình này đều được định danh, định
tính, định lượng tới mức không thể giản dị và chi tiết hơn, từ hình thành
"ý tưởng" cho tới xây dựng "chuyện phim", rồi từ "chuyện
phim" mà thiết kế khung xương của bộ phim với "cấu trúc ba hồi";
trước khi tới những hướng dẫn "soạn thảo văn bản" hoàn chỉnh kịch bản
phim truyện, tác giả có những hướng dẫn cụ thể và sinh động về cách "xây dựng
nhận vật", "tạo cảnh", viết "thoại", những công việc
giúp đảm bảo cho sự thành công của kịch bản.
Có ai đó từng viết: nhiều khi việc phân tích/ giới thiệu một
tác phẩm trở nên thừa và vô duyên tới mức giống như phải viết lại chính tác phẩm
ấy. Và đây cũng là trường hợp của cuốn sách "Để trở thành nhà biên kịch phim truyện", vậy nên, những ai muốn
làm nghề hoặc làm những việc có mối quan hệ với văn chương, với nghệ thuật thứ
bẩy, hãy đọc và tiếp nhận. Chúng ta sẽ sáng rõ thêm rất nhiều chi tiết hậu trường
của nghệ thuật, không chỉ khi xem phim, đặc biệt, những người dạy và học văn
trong trường phổ thông sẽ được trang bị thêm rất nhiều tri thức để tới với văn
chương. Ngoài những nội dung đã đề cập ở phần trên về mối liên hệ không thể phủ
nhận giữa ngôn ngữ điện ảnh và ngôn ngữ văn học, giữa các thủ pháp giữa văn
chương - nghệ thuật ngôn từ và điện ảnh - nghệ thuật mà nhà biên kịch và đạo diễn
J. Cocteau đã nói:" Phim, đó là chữ
viết trong các hình ảnh thị giác", cuốn sách của tác giả Nguyễn Quang
Lập còn là tài liệu tuyệt vời giúp thày trò có thể "kịch bản hoá" các
tác phẩm văn học trong trường phổ thông. Với những trích đoạn các tác phẩm như Chí Phèo, Vợ nhặt, Chiếc lược ngà, Chiếc
thuyền ngoài xa..., thay vì yêu cầu học sinh soạn bài theo hệ thống các câu
hỏi nặng về hình thức trong sách giáo khoa ( nói " hình thức" vì nhiều
khi việc trả lời chúng là bất khả thi, và rất ít ý nghĩa cho việc cảm thụ tác
phẩm!), giáo viên hoàn toàn có thể hướng dẫn trò thiết kế tác phẩm theo hướng
" kịch bản hoá"! Học trò buộc phải đọc kỹ, suy nghĩ tới độ chín, khả
dĩ có thể hiểu nhân vật, câu chuyện..., tự thiết kế các kịch bản theo " cấu
trúc ba hồi" để khám phá các xung đột, khủng hoảng, các chân dung tâm hồn,
tính cách nhân vật mà không nhất thiết phải " diễn kịch"!
Bên cạnh các tác phẩm có biến cố, xung đột kể trên, chương
trình ngữ văn THPT còn các tác phẩm như Đời
thừa ( Nam Cao), Hai đứa trẻ ( Thạch
Lam), Bến quê ( Nguyễn Minh Châu)...,
những " truyện không có chuyện",
những tác phẩm tiềm tàng khả năng tiếp cận theo hướng " kịch bản hoá"
khác với các kịch bản tự sự truyền thống.
Dù tác giả đã nói ngay
trong phần Nhập môn:" Cuốn sách này
cũng chỉ tập trung hướng dẫn các bạn soạn thảo kịch bản phim truyện nhựa thuộc
dòng tự sự, là dòng nghệ thuật kể lại một câu chuyện có đầu có đuôi. Đây là
dòng nghệ thuật căn bản của điện ảnh, văn học và sân khấu từ xưa tới nay. Tuy
đã quá cũ rôi nhưng tới nay vẫn được số đông khán giả hâm mộ. Như người ta nói,
hãy nắm vững các nguyên tắc trước khi phá bỏ nó, bạn phải nắm chắc kĩ nghệ sản
xuất phim thuộc dòng tự sự này trước khi muốn chuyển sang sáng tác cho các
dòng nghệ thuật điện ảnh khác" ( tr. 7,8), tuy nhiên, sự hữu ích của
cuốn sách khiến chúng ta vẫn mong được đọc cuốn tiếp theo, mong được tác giả
Nguyễn Quang Lập đề cập tới kĩ năng biên kịch cho "các dòng nghệ thuật điện ảnh khác"! Cuốn sách ấy cũng sẽ
giúp người đọc có thêm kiến thức hữu ích khám phá giá trị các tác phẩm văn học
và nghệ thuật theo xu hướng đổi mới thời hiện đại. Những " kịch bản phim truyện nhựa thuộc dòng tự sự, .... kể lại một câu
chuyện có đầu có đuôi" chủ yếu dựa vào những hành động / xung đột bên
ngoài, chuyện phim được xây dựng dưa trên các biến cố, sự kiện, " các bước ngoặt cuộc đời nhân vật được
miêu tả phần lớn do sức mạnh, lòng dũng cảm, sự khéo léo và cơ trí của chúng"
( N. Poxelop). Đó là những kịch bản phim, những cốt truyện của các tác phẩm văn
học truyền thống, khá hấp dẫn với số đông khi ngươi đọc, người xem trải qua mọi
cung bậc ái ố hỉ nộ theo các xung đột, biến cố, kết thúc phim/ truyện là kết
thúc xung đột!
Tuy nhiên, cuộc sống con người vốn được đặt trên nền của " tình huống xung đột cố hữu" (
chữ dùng của M. Bakhtin), như A.Tsekhôp
đã nói : "Người ta không lên Bắc Cực
để đánh nhau với hải cẩu, người ta ở nhà đi làm, cãi nhau với vợ và ăn súp bắp
cải", và chính trong những cuộc “cãi nhau” nhỏ nhặt nhàm chán và những
bát “súp bắp cải” đời thường ấy lại chứa chất bao nhiêu vấn đề lớn lao của nhân
sinh, thế sự. Đó là tiền đề cho những tác phẩm văn học, những kịch bản phim
truyện nhựa khai thác sự vận động tâm lý, cảm xúc bên trong của nhân vật, trong
đó, "sự kiện trước hết xuất hiện với
tư cách là nguyên nhân của các suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật, các nhân vật thể
hiện tư tưởng, tình cảm của chúng trong các hành vi (như lời nói, cử chỉ, nét mặt)
nhưng không hề làm gì để mang lại các thay đổi bên ngoài đáng kể trong cuộc sống
nhân vật" ( N. Poxelop). Đây là những tác phẩm có cốt truyện phổ biến
trong sáng tác của A.T.Sêkhôp như Vườn
anh đào, Quả phúc bồn tử, và các sáng tác của Nam Cao như Sống mòn, Đời thừa, những cốt truyện dựa
trên cơ sở "những cơn thăng trầm
trong cảm xúc của nhân vật, thường là độc lập với bất cứ sự kiện nào, những mâu
thuẫn xung đột mà nhà văn nêu ra tồn tại cả khi khởi đầu của các sự kiện được
miêu tả, cả trong quá trình chung diễn biến và cả sau khi chúng đã kết thúc, sự
việc xảy ra trong đời nhân vật xuất hiện như là một sự bổ sung cho các mâu thuẫn
đã có sẵn, bất chấp có sự việc ấy hay không" ( N. Poxelop).
Một cuốn sách hay thường khiến người đọc có cảm giác nuối tiếc
khi đọc tới trang cuối cùng, một cuốn sách hữu ích sẽ khiến người đọc mong có
những cuốn cùng đích hướng tiếp theo, những cuốn sách có thể đáp ứng nhu cầu
không bao giờ kết kết thúc của cuộc sống. " Để trở thành nhà biên kịch phim truyện" của tác giả Nguyễn
Quang Lập là cuốn sách có cả hai phẩm chất ấy!
Trả lờiXóaĐiện dân dụng viễn thông
Công Ty TNHH MTV Thương Mại Kỹ Thuật Điện Thúy Nhi
Nhà cung cấp thiết bị điện dân dụng, dây dẫn, thiết bị viễn thông cho các công trình xây dựng dân dụng, văn phòng, các hộ gia đình với giá tốt
Thiết bị điện dân dụng | Báo giá thiết bị điện dân dụng | Ống luồn dây điện con rắn | Ống luồn dây máy tính | Ổ cắm điện đa năng âm bàn | thi công điện chiếu sáng TPHCM | Cửa hàng thiết bị điện bình thạnh | Ổ cắm điện âm bàn