KCVR 3- CÁI BÓNG



Sau khi tôi chào Đời, nói thế cho oách, trận mưa lớn bỗng biến thành cơn giông đêm bốc đi toàn bộ tranh tre mái chuồng bò, ba tin theo tập tục ngớ ngẩn đã bứt hết dây lạt cho mạ dễ đẻ. Gió giật điên cuồng, rơm lót nền chuồng bò bốc lên tha hồ tấp lên tôi và mạ chừng vài giây rồi nhanh chóng bị gió cuốn tan tác. Gió mưa ập đến nhanh quá, không ai kịp mặc quần cho mạ, bà trần như nhộng giữa toang hoác. Chị Hai chồm lên che chở cho tôi. Một cơn gió giật xô nghiêng chị. Chị kêu lên kinh hãi, hốt hoảng quờ quạng tìm tôi trong rơm rác. Chị sợ tôi bị gió cuốn lên trời. Nếu ba không kịp chạy sang nhà bác Đông mượn tấm bạt trùm lên, có khi tôi đã bị gió mang theo cùng rơm rạ và cứt bò khô.

Mưa đổ xuống như trút nước, cảm tưởng toàn bộ khối nước khổng lồ của thế gian đổ xuống chuồng bò nhà tôi, sẵn sàng cuốn phăng cái thằng đầu bò có tên là Phạm Quang suốt đời chẳng làm nên công cán gì, chỉ nói năng ba láp là giỏi. Tôi không sợ. Tôi chưa có đủ trí khôn để biết sợ, nếu có đủ trí khôn tôi cũng không sợ. Đời tôi rặt những nể nang chứ không có cái gọi là sợ hãi. Nếu biết sợ hãi thì lúc này đây chắc chắn tôi cũng không sợ. Một khi người ta nhận thấy Đời toàn rơm rác, cứt bò khô, ngập ngụa nước và một trời giông gió... ai muốn chung sống với nó nữa mà sợ!

Thời của nổ và chém gió, tôi bầy đàn a dua cho sướng mồm vậy thôi. Không biết sợ làm sao tôi tồn tại đến ngày nay?

Không ai cho tôi ăn cả. Tôi thiếp đi trong cơn đói chập chờn với giấc mơ đầy thức ăn, giấc mơ thường xuyên đến với tôi trong suốt tuổi ấu thơ. Tôi nằm lắng nghe những âm thanh bát nháo của Đời, lòng không một chút xao xuyến. Tôi đang đói, cơn đói chập chờn trong giấc mơ ngập ngụa thức ăn. Giấc mơ màu sữa tươi bồng bềnh trôi nổi trong tâm thức yes or no làm tôi không tài nào ngủ được.

Tôi đoán chừng mưa gió đã tạnh, khi tấm bạt bắt đầu thấm nước thì mưa gió đã rời khỏi cái chuồng bò. Không phải. Mưa gió vẫn đầy trời nhưng ba đã lợp xong hai mái chuồng bò.Tấm bạt được tháo tung, đèn măng-sông bác Đông gái cho mượn tỏa ánh sáng chói mắt.
Đèn măng - sông là loại đèn sang trọng nhất thời này, chỉ những nhà giàu sang mới có. Rất ít đứa trẻ vừa ra đời đã nhìn thấy đèn măng- sông như tôi. Những nơi cách Thị trấn Kô Long vài cây số nhiều người suốt đời không nghe nói đến đèn này. Bác Đông gái là bà đỡ số một của Thị trấn dĩ nhiên không thể nghèo. Nhưng để có cái đèn măng- sông sang trọng thể này là nhờ vào bác Đông trai, phó ty công an tỉnh, một chức danh thoạt nghe đã lạnh gáy.

Tôi mở mắt. Xung quanh tôi là những gương mặt thân yêu, rồi đây tôi sẽ gắn bó bền bỉ nhiều năm trời cùng với họ. Ba nhoẻn miệng cười, hàm răng trắng đều tăm tắp, vẫn trắng đều tăm tắp như thế cho đến khi ông từ giã cõi đời. Ông chăm chú nhìn tôi, cái nhìn ấm áp, tin cậy. Con cái nhà này ba đều có cái nhìn ấm áp, nhưng tin cậy có lẽ chỉ mỗi mình tôi. Nhà tôi ai cũng nhận ra cái nhìn tin cậy của ông dành cho đứa con duy nhất hay cãi nhau với ông, bị ông thường xuyên gọi là “thằng phản động” , hết thảy đều ngạc nhiên. Đó là sự ngạc nhiên thú vị. Tôi cãi nhau với ba từ khi tôi biết cãi nhau cho tới khi ông không thể cãi nhau được nữa. Trước khi cấm khẩu hết cãi nhau với tôi để từ giã cõi trần, ba đã mở to mắt nhìn tôi, cái nhìn rực lên niềm tin cậy.

Chị Hai đang tươi tắn nhìn tôi, gương mặt tuổi dậy thì ửng hồng, cái mũi dọc dừa tuyệt vời và đôi môi tươi rói, dù ai có trang điểm bằng giời cũng không thể có. Chị có khuôn mặt duy nhất giống ba, số còn lại, kể cả tôi, đều đúc từ khuôn mặt mạ, khuôn mặt chẳng có gì phải xấu hổ cũng chẳng có gì đáng tự hào. Chị đang phải gánh vác vai trò người chị cả. Chị Cả đi lấy chồng cách đây một năm, tối nay cũng không có mặt. Có thể chị Cả đã biết tin mạ trở dạ nhưng bà mẹ chồng trời đánh đời nào cho chị bước ra khỏi nhà sau bảy giờ tối. Anh con trai lớn sau chị Hai là anh Ba cũng không có nhà. Anh Ba nhờ thành tích dạy “bình dân học vụ” và nhờ vào lý lịch tuyệt hảo, chủ yếu ba đã kiên cường bám trụ cái chuồng bò, đã được đi học ở Bulgaria, giành lấy niềm tự hào vô song trên đất Kô Long này.
Chị Hai chui vào nằm cạnh từ lúc nào, ôm lấy tôi vừa thút thít khóc. Tội em quá em nờ.... Tội em quá em ôi! Chị nhắc đi nhắc lại hoài câu đó, nhắc đến trọn đời chị câu đó với tôi mà không thể ra tay giúp đỡ tôi được một việc gì, bởi vì chị không thể có bất kì cái gì tôi cần. Là ca sĩ xinh đẹp và hát hay nhất miền Trung, chị nhiều lần được vào ra Phủ chủ tịch và có chừng trăm hot boy đem lòng yêu mến nhưng chẳng ai cưới làm vợ. Bốn đứa con của chị không biết bố chúng là ai, nhà tôi cũng không ai biết. Đời chị tóm lại một chữ khổ đau, không còn chữ nào hơn.

Anh Tám bảy tuổi đứng chắp tay sau đít như ông già. Anh có cái đầu loe giống hệt tôi. Mặt mũi cũng đen nhẻm giống hệt tôi. Sau này tôi biết anh giống hệt tôi đủ thứ, chỉ có một khác biệt duy nhất phân định rạch ròi tôi và anh, đó là anh làm thầy bói vườn còn tôi là nhà văn quèn. Thực ra hai thứ này chỉ là một. Cả hai đều nói dối quá khứ và bốc phét tương lai, đều làm ra vẻ là người hướng đạo nhưng vai trò bất quá một kẻ mua vui.

Anh Tám nghiêm trang nhìn tôi như để xem xét có đúng tôi chui ra từ bụng mạ hay là một nơi nào khác. Thằng ni mới đẻ nhỏ hè! Cuối cùng anh gật gù ra một kết luận hiển nhiên sau nửa giờ soi xét rất nghiêm túc. Đời anh khốn nạn vì những kết luận hiển nhiên như thế, dù đầu óc không hề tăm tối.

Anh Chín năm tuổi ngồi xổm cạnh tôi, mặt hiền khô lúc nào cũng chảy đầy nước mũi, nhớt dãi. Mân mê hai cái sừng nho nhỏ trên đầu tôi mặt mày nghiêm trọng, anh nheo mắt suy nghĩ rất lung. Anh đang tưởng tượng phía trong hai khối u máu bất thường kia có chứa những điều gì rất kì ảo. Cái nhìn nhà thơ, phản ánh lối sống phi thực sau này của anh, bắt đầu từ ba chục tập thơ nhớ nhà- những bài thơ du dương được viết dưới một trời bom đạn. Với anh hạnh phúc luôn sẵn có không việc gì phải thắc mắc. Đói nghèo là cửa ngõ của giàu có, khổ đau là khởi đầu của hạnh phúc, lúc nào anh Chín tôi cũng chứa chan hy vọng.

Anh Chín rời hai cái sừng, trố mắt nhìn như dán cái bụng cuốn chặt băng của tôi, đôi mắt tròn xoe như mắt con gái đầy lo lắng. Anh ngẩng lên ngẩn ngơ nhìn mọi người. Răng không cho em ăn?... Cột bụng em lại, đói em chừ! Anh hỏi trống không. Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng anh Chín lo tôi đói. Từ đấy về sau tôi để ý xem anh còn nói được câu nào như thế nữa không, không và không, tuyệt nhiên không. Thế gian này tôi chỉ thấy hai người sung sướng, một là ông Di Lặc hai là anh Chín của tôi. Ông Di Lặc không thể sướng bằng anh Sáu, ông này chỉ biết ngồi nhăn răng cười, anh Chín ngoài ngồi nhăn răng cười còn biết làm thơ, về già còn làm bài hát.

Vào năm đói kém nhất thế kỉ qua, năm mà đến cám và bo bo cũng không có mà ăn, anh Chín vẫn chứa chan hy vọng. Anh sáng tác được hơn năm chục bài thơ và hơn chục bài hát ca ngợi non sông gấm vóc, ca ngợi Đảng quang vinh. Cho tới tận bây giờ vẫn khôn ai chê các tác phẩm của anh. Nếu có ai đó chê, anh cũng đinh ninh người ta chỉ đùa, anh không thể tin nỗi những gì anh viết ra là dở.
Xin lỗi, tôi có hơi sa đà chuyện ngày nay…

*

Mạ mỉm cười bế tôi lên, gương mặt trái xoan phủ một lớp da nâu, tái nhợt sau sinh nở. Gương mặt không một nét nào gọi là đẹp, chỉ một chút duyên dáng chân quê đàn bà con gái Kô Long ai cũng có. Bù lại bà có sức khỏe phi phàm, suốt đời không bao giờ ốm trừ lần cuối cùng ốm để mà chết. Mạ vén vú cho tôi ăn. Tôi cố há miệng thật to hòng nuốt trôi núm vú, cố mấy cũng không được. Núm vú sau mười lần sinh nở đã bung ra quá cỡ cái miệng sơ sinh lần đầu tiên tập há. Mạ nắn vú, tia sữa đầu đời bắn vào miệng tôi, sâu vào tận cuống họng, mát rượi và ngọt lịm. Chẳng có gì trên đời mát rượi và ngọt lịm như sữa mẹ, phát hiện đầu đời của tôi, mãi đến bây giờ, sau bao nhiêu dâu bể đời người, vẫn còn nguyên giá trị. Cho biết vì sao ta có thể mất tất cả chứ không thể mất mẹ.

Tôi uống sữa mạ không biết chán cũng không biết no, tới lúc nào mạ quyết định giấu vú đi hoặc khi nào sữa dội ngược trào ra miệng, ướt đầm cổ áo, tôi mới chấp nhận chia lìa với Vú. Chưa bao giờ tôi ngủ trong khi bú, điều khác biệt của tôi với trẻ con toàn thế giới, điều trẻ con toàn thế giới không hiểu tôi, cũng là điều tôi không hiểu trẻ con toàn thế giới. Tôi bú trong trạng thái hồi hộp lo âu, nơm nớp lo sợ hai bầu vú khổng lồ - niềm tự hào thầm kín của mạ tôi - bỗng dưng biến mất, hoặc chúng vẫn còn đấy nhưng nguồn sữa đã khô kiệt, hoặc nguồn sữa vẫn tràn đầy trong hai bầu vú khổng lồ nhưng chẳng còn mát rượi và ngọt lịm.

Vẫn miệng ngậm vú này, tay nắm chặt vú kia như trẻ con toàn thế giới, nhưng không phải sợ kẻ khác giành mất phần. Tôi sợ mất, cái sự mất bỗng dưng không nguyên cớ. Xứ này những ai khát sống đều có nỗi sợ mông lung chập chờn suốt cả cuộc đời, tôi cũng vậy. Không ai dạy tôi cả. Ngay khi từ bụng mạ chui ra cái chuồng bò, nằm lẫn giữa rơm rạ và cứt bò khô tôi đã biết chỉ cần ra khỏi cửa chuồng bò sẽ gặp một thứ rất đáng yêu và cũng rất khó chịu, là cuộc sống. Đáng yêu vì chứa đựng bao nhiêu bất ngờ thú vị, khó chịu vì có quá nhiều cạm bẫy.

Sau này lớn lên tôi mới thấy rất nhiều khi cái mà tôi tưởng là cạm bẫy té ra đó là điều bất ngờ thú vị, ngược lại cái mà tôi tưởng là điều bất ngờ thú vị té ra là cạm bẫy. Đời là một cái gì rất bí hiểm được mọc lên từ những bất ngờ thú vị. Đủ biết nỗi sợ hãi về sự mất bỗng dưng của tôi là chính đáng.

Thôi không dài dòng nữa, dài dòng không có trong ngôn ngữ chào đời. Mạ đang cúi xuống hôn nhẹ lên trán tôi, nụ hôn thoảng qua, nhẹ đến nỗi tôi chỉ cảm được mùi trầu không chợt tỏa ra chợt biến mất, không hề hay biết đó là nụ hôn đầu đời sau bốn giờ tôi có mặt ở Đời. Thôi… no rồi con. Mạ giấu vú đi. Bà hôn tôi đánh chụt. Tôi tiếc nuối chia lìa Vú. Chợt thấy sau lưng mạ có cái gì đen đen đang cựa quậy mỗi khi mạ cựa quậy.

Cái bóng!

Đen và to như con gấu đen dính chặt vào vách là cái bóng của mạ, một vật sống đen ngòm không mắt không mũi không mồm có hình dáng giống y xì dáng mạ. Tôi quá lạ lùng. Ở đâu ra cái vật sống luôn luôn dính chặt lấy mạ, kiên trì lặp lại vô duyên những hoạt động chẳng có gì là thú vị của bà? Nó là cái gì vậy, cái bóng thì rõ rồi nhưng nó là cái gì? Chịu. Lát sau mạ đưa tôi cho ba bế, tôi lờ mờ nhận ra, hình như ai cũng có cái bóng của mình?

Cái bóng của ba nằm dài trên nền nhà, vươn ra ngoài cửa, thò cái đầu cũng rất dài ra tận đống rơm. Bóng của anh Tám, anh Chín đang lúi húi quanh nồi khoai, lúc la lúc lắc trông rất buồn cười. Hai cái bóng đang ăn khoai, chúng lấy khoai từ trong nồi, lúi húi bóc vỏ, nhanh chóng nhét vào miệng, một vị trí giả định trong đám đen hình oval dính trên cổ gọi là mặt. Chúng ăn hết miếng này đến miếng khác. Cái bóng ăn khoai, cái bóng ăn cái bóng khoai. A, củ khoai cũng có bóng, thật tuyệt vời!

Nồi khoai cũng có bóng! Những cọng rơm cũng có bóng! Cả những con kiến bé tí đang bò lên cột nhà sau trận mưa dầm dề nước ngập hết hang ổ của chúng cũng có những cái bóng tí hin! Bóng chị Hai đang bó gối chăm chú nhìn hai cái bóng ăn khoai, bóng chị không hề cử động, nó ngồi im phắc hơn nửa tiếng trên vách đất đã lở lói gần hết. Tất cả đều có bóng, thế còn cái bóng của tôi đâu? Có thể nó nằm dưới lưng tôi, hoặc lọt thỏm vào cái bóng to đùng của ba. Kia rồi! Cái bóng của tôi kia rồi! Hệt con chó đen nằm ngửa.

Tôi thử vung tay lên nó cũng vung tay lên. Tôi vung chân lên nó cũng vung chân lên. Được rồi, để tao đái xem mày có đái được không nào? Tôi đái. Một dòng nước như sợi chỉ trắng vọt ngược lên. Cả nhà ồ lên ca ngợi cái sợi chỉ trắng vọt ngược ấy, biểu hiện năng lượng sống dồi dào của một đứa trẻ sơ sinh. Tôi không quan tâm lắm những lời ngợi ca thái quá có phần ngộ nhận ấy, tôi quan tâm cái bóng của tôi. Nó đái rồi. Cái bóng đái ra tia bóng võng ngược lên trần chuồng bò, rơi xuống đúng bóng nồi khoai, nơi hai cái bóng anh tôi đang hí húi nhặt bóng khoai ăn. Thật chẳng ra làm sao, đến đái ỉa cái bóng cũng háo hức làm theo, hỏi có việc gì trên đời nó không háo hức làm theo, quái lạ!

Sinh thời ông Lê Duẩn từng nói loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là tìm ra làm chủ tập thể, tức tìm ra thứ ông Lê Duẩn đã tìm ra. Tôi thì cho rằng phát minh quan trọng nhất của loại người là việc tìm ra cái bóng. Đó là sau này, khi tôi đủ già để nghĩ ngợi lăng nhăng, còn bây giờ tôi chỉ thấy là lạ hay hay, giống như ông vượn người đầu tiên thấy lửa cũng là lạ hay hay. Tôi nằm im suy nghĩ về cái bóng nhưng không nghĩ được một cái gì cho rành mạch. Bán cầu trái cô đơn của tôi lúc này chẳng khác gì một miếng đậu phụ sống, trơ lì nhạt hoét. Tôi buồn ngủ. Hễ khi nào tôi đòi biết những thứ biết cũng chẳng để làm gì là tôi buồn ngủ.

Giấc ngủ của tôi chìm đi mê mệt trong vòng tay ba, sau đó trong vòng tay chị Hai, cuối cùng trong vòng tay mạ. Bốn giờ sáng tôi mở mắt, thấy mình đang nằm lọt thỏm giữa chị Hai và mạ. Anh Tám, anh Chín đang quặp cổ nhau nằm phía dưới chân tôi, cạnh nồi khoai ăn dở. Tất cả những cái bóng đều biến mất. Có thể chúng đã ngủ, có thể chúng đã chết... tôi cũng không biết nữa. Tôi thấy buồn, nỗi buồn mơ hồ bắt đầu từ đầu ngón chân trườn dần lên đến miệng và dừng lại ở đầu. Tôi thè lưỡi liếm nỗi buồn của tôi, nỗi buồn nhạt hoét, hoi hoi mùi sữa.

*

Tiếng gà canh ba rộ lên, lúc xa lúc gần từng đợt từng đợt kéo dài đến phát chán và dần lịm đi. Tôi nằm nhìn ra cửa, vệt sáng đèn măng-sông kéo dài tận cây rơm, một khoảng sáng im lìm không động cửa với độ sáng bất biến đến ớn lạnh. Cho tôi biết một khoảng đời đơn điệu và nghèo túng sẽ kéo dài cho đến muôn sau. Mấy phút sau tôi thấy cái bóng của ba đã thức dậy từ lúc nào. Nó không còn vươn dài ra sân mà lù lù trên vách, tựa một con bò đen ngồi xổm. Ba thức dậy lúc bốn giờ. Ông không hề biết tôi đã thức giấc cùng ông, đang mở to mắt ngắm nghía tấm lưng gầy guộc, bẻ gập xuống của ông.

Ba im lìm nhìn ra cửa như đang chờ đợi ai, chờ đợi một điều gì. Người tử tế không ai đến giờ này, phúc lộc tất nhiên giờ này cũng không gõ cửa. Chỉ có những rủi ro đang rình rập, vẫn thường nghiến nát số phận người ta vào những thời khắc yên bình nhất. Ra đời đã gần bảy tiếng tôi không nghe ba nói một câu nào, một tiếng cũng không. Ba ngồi bó gối nhìn ra cửa hơn một giờ không động cựa. Không rõ ba có dáng ngồi này từ lúc nào. Cứ bốn giờ sáng là ông tỉnh giấc, ngồi bó gối ngóng ra cửa sổ, cứ như thế cho tới lúc ông chết. Tôi ghét dáng ngồi ấy, đó là dáng ngồi bất an. Kể từ khi tôi ra đời đến lúc ba về trời nhà tôi chưa khi nào yên ổn.

Ghét của nào trời trao của ấy, càng lớn lên tôi càng có dáng ngồi như ba. Đúng bốn giờ sáng tôi cũng tỉnh giấc ngồi bó gối ngóng ra cửa sổ. Tôi không biết ba chờ đợi những gì, tôi thì chẳng chờ đợi gì cả. Kể từ tuổi hai mươi tôi chẳng còn gì để chờ đợi, không thật là không. Sau ngày thống nhất tôi vào Nam ra Bắc nhiều lần, đã thấy những gì tôi chưa phải thấy, đã nghe những gì chưa được nghe, ngay cả trong những giấc mơ đen tối nhất và tươi đẹp nhất. Từ đó cứ bốn giờ sáng bó gối nhìn ra. Hai lăm tuổi nhìn lên núi Ba Vì, hai sáu tuổi nhìn ra rừng Mông Dương, hai bảy tuổi nhìn ra biển Cái Bầu, hai tám tuổi nhìn ra cảng Hải Phòng, ba mươi tuổi nhìn ra núi Phước Tường, ba hai tuổi nhìn ra rừng Trà Mi, ba hai tuổi nhìn dòng Đăk’rông, ba ba tuổi nhìn ra sông Nhật Lệ, ba lăm tuổi nhìn ra dòng Sông Hương, bốn mươi tuổi nhìn ra Thành Cổ, bốn hai tuổi nhìn ra sông Gianh, bốn lăm tuổi nhìn ra Hồ Gươm, năm mươi tuổi nhìn ra hồ Linh Đàm, sáu mươi tuổi nhìn ra sông Sài Gòn, tất cả chỉ một cái nhìn vô hồn với cái đầu trống rỗng, không một lần đổi khác.

Tiếng gà gáy rộ lên lần nữa, ba chống gối đứng lên tiến về nồi khoai ăn dở của cả nhà, ngồi xổm hí húi bóc khoai ăn. Ông ăn hết tất cả những mụn khoai đụt nhỏ xíu còn sót lại trong nồi rồi ngồi im nhìn đau đáu vào đám vỏ khoai. Một giọt nước mắt tứa ra từ khóe mắt trái, đọng thành giọt lăn trên má trái. Một giọt nước mắt khác tứa ra từ khóe mắt phải, đọng thành giọt lăn trên má phải.

Không biết mình đang khóc, ba cứ mải mốt nhìn đám vỏ khoai, mặc cho nước mắt giọt vắn giọt dài tràn trề trên gương mặt sáng ngời quí phái của ông.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét