Ba không yêu mạ, đó là sự thật suốt cả cuộc đời không một lần cả hai người hở ra với con cái. Tôi biết được nhờ láu lỉnh và thói quan sát bẩm sinh.
Ba là người đàn ông ở ngoài mơ ước đẹp nhất của mạ. Ông có vẻ đẹp trời phú, một trí nhớ phi phàm, một giọng hát ấm áp, trong vắt và một cái bằng diplome ở vị trí đầu bảng. Đến người uy vọng nhất Thị trấn Kô Long là ông bác Vĩ hãy còn nể trọng ba , nói gì đến cô gái nhan sắc tầm thường, một chữ bẻ đôi cũng không biết, chị của chín đứa em đói rách lầm than như mạ tôi đây.
Nhà ông ngoại ở Xóm Dừa, xóm nghèo nhất Kô Long. Trai gái trong xóm nếu không lấy được nhau đành chịu ế, chẳng ma nào xóm khác muốn bạ men. Ca dao Kô Long có câu: “Thấy em anh cũng muốn ưa/ Hỏi ra em ở Xóm Dừa, lại thôi…” Câu ca này tồn tại từ thế kỉ 15, thuở mới có đất Kô Long và Xóm Dừa, tới khi mạ đến tuổi cập kê vẫn còn nguyên giá trị. Vẫn còn nguyên giá trị cho tới khi con gái tôi đến tuổi cập kê, trải qua không biết bao nhiêu bước tiến, bước ngoặt và đột phá, Kô Long vẫn Kô Long, Xóm Dừa vẫn Xóm Dừa, và câu ca dao kia vẫn không hề bị sứt mẻ.
Cái thời trai gái mười sáu mười bảy tuổi là đến tuổi dựng vợ gả chồng, mạ đã hai lăm tuổi đầu vẫn chưa có nhà nào trong xóm đánh tiếng hỏi han, đủ biết bà không có khả năng quyến rũ bất kì chàng trai nào trong xóm. Người ta vẫn khen mạ khỏe mạnh hiền lành nhưng ai cũng sợ đoàn tàu há mồm chín đứa em sẵn sàng nuốt chửng nửa yến gạo một ngày. Mạ đành thủ phận gái ế, ngày đêm sấp mặt kiếm ăn cho cả nhà.
Cái từ sấp mặt rất đúng với mạ cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sáng. Mạ đội chồng nón ra chợ bán buôn, chồng nón ba chục cái đè cổ mạ cúi gập. Chiều. Mạ ra đồng cày cuốc, lưng bà hất lên gập xuống trên cánh đồng chua mặn của Xóm Dừa, cánh đồng chẳng có gì tươi tốt ngoài cỏ lác, cỏ năn và cá lia thia. Tối. Mạ gò lưng gập cổ lợp nón khâu nón đến nửa đêm rồi vùi mặt trong đống lá nón dưới chân đàn em ngủ như chết. Ba giờ sáng bò dậy nấu nước cho cha, hâm cháo cho em, dọn nhà quét sân giặt giũ áo quần cho cả nhà... Sáu giờ sáng lại đội chồng nón ra chợ. Một ngày của mạ là vậy, đó là một ngày của con gái Xóm Dừa. Chưa một lần bà ngước lên tự hỏi rồi đời mình sẽ ra sao, chồng con rồi sẽ thế nào...
Một chiều đang bữa cơm ông ngoại chợt chăm chăm nhìn mạ, cái nhìn rất lạ. Mi biết thằng Vũ con ông cu Cuông không Thu? Ông ngoại hỏi bâng quơ. Thôi đi bọ ơi, hỏi chi hỏi lắm! Mạ lườm ông ngoại thở hắt. Quả là câu hỏi đã quá nhàm, mạ đã quá chán. Từ năm mười bảy tuổi bà đã nghe ông ngoại hỏi vậy rồi, đến khi bà hai lăm tuổi ông ngoại đã hỏi đi hỏi lại hàng trăm lần vẫn câu hỏi ấy. Mạ biết đó không phải là câu hỏi, đó là sự tiếc nuối.
Ông cu Cuông là ông nội tôi, người bạn nối khố chí thân của ông ngoại. Ông bà nội thuộc dân Xóm Dừa, nghèo hèn chẳng khác gì ông bà ngoại. Họ đã hẹn với nhau trong cả đống con cái của hai nhà nhất định phải có một đôi thành vợ thành chồng, đó là thằng Vũ (ba tôi) và con Thu (mạ tôi). Hẹn hò chưa được bao lâu, ông bà nội bị chết bom. Bốn đứa con được người anh ruột là ông bác Vĩ, nhà tư sản số một Thị trấn cũng là số một tỉnh, đem về nuôi cho ăn học rất tử tế, nhanh chóng biến đàn con đói rách lầm than của ông bà nội thành các công tử, tiểu thư giàu sang phú quí, dập tắt luôn niềm hy vọng mong manh của ông bà ngoại. Thỉnh thoảng ông ngoại vẫn kể lại lời hứa hẹn năm xưa. Mạ không buồn nghe, bà thường bỏ ra sau nhà khóc. Bà thấy nhục hơn là nuối tiếc.
Cơm xong mạ bưng mâm đi ra giếng. Thu… đứng lại bọ nói! Mạ vừa ra tới cửa, ông ngoại gọi giật. Mạ sững lại ngoái cổ nhìn. Ông ngoại làm bộ như không có gì quan trọng, mặt mày tỉnh bơ. Chiều ni ông Vĩ tới nhà. Ông ngoại dừng lại chừng ba giây, mạ tưởng ba thế kỉ. Mãi rồi ông ngoại cũng nói. Té ra trước khi chết ông cu Cuông có nhắn lại cho ông Vĩ lời hẹn của tụi tau. Ông ngoại cười hấc hấc, dừng lại chừng ba giây nữa rồi cúi gầm mặt cười hấc hấc hấc cứ như dưới rốn có cái gì hay lắm. Thình lình ông ngoại hất đầu lên. Rứa mới hay chơ! Ánh mắt ông ngoại sáng ngời dân dấn nước.
Mạ suýt đánh rơi cái mâm, may bà trấn tĩnh lại được. Bà nguýt ngang ông ngoại. Thôi đi bọ… tin chi ba chuyện tầm vơ! Bà bưng mâm quay ngoắt. Kể từ đó mạ đi không vững nữa, đất trời quanh bà chao đảo. Tới gần giếng mạ sụp xuống. Bà ngồi ngửa mặt trông trăng cả tiếng đồng hồ. Trong nhà ông ngoại tu cạn xị rượu, gõ bát hát vu vơ. “Cá lí ngư sầu tư biếng lội/ Chim trên cành sầu cội biếng bay,/ Anh thấy em nhiều nỗi đắng cay...” Nghe ông ngoại hát mạ cũng muốn hát quá, bà chẳng nhớ được câu gì. Mãi rồi mạ cũng nhớ. “Em với anh cùng tổng khác làng/ Nào em có biết ngõ chàng ở đâu?” Mạ lầm bầm đọc, môi run run hai tai đỏ tía. Nào bà có biết nhà ba ở đâu, đến cái mặt cũng chưa một lần nhìn rõ. Ở mô hè… ở mô? Mạ lẩn thẩn hỏi, rồi như kẻ mộng du mạ ngửa mặt trông trăng tha thẩn ra đến tận bờ sông Kô Long từ lúc nào không biết.
Lần đầu tiên mạ khỏa thân dưới trăng, bà ngập vào sông Kô Long bơi lội tha hồ cho tới khuya. Trăng mười một đã tàn từ lâu mạ vẫn không về, bà ngồi thu lu trên bờ đê nhìn trời đang rựng sáng. Mạ sợ phải về nhà, hai ông bà già ốm yếu già nua và chín đứa em đang nằm ngổn ngang trên sạp nứa sẽ làm tắt ngúm giấc mơ đẹp nhất đời bà. Rất có thể giấc mơ chàng công tử đẹp trai với nàng nhà quê đói rách rốt cuộc vẫn chỉ là giấc mơ hão. Bà run sợ xiết bao.
*
Một ngày ba xuất hiện trước ngõ nhà ông bà ngoại với tư cách chàng rể đón mạ về nhà chồng giữa năm trăm cây đèn lồng, một ngàn chiếc chiếu hoa, do ông bác Vĩ bỏ tiền ra, rải dọc lối vào ngôi nhà tranh rách nát mười hai miếng ăn của ông bà ngoại. Sự kiện này làm rúng động Thị trấn bốn ngàn nóc nhà, duy nhất chỉ có hai nhà lầu, đó là nhà ông bác Vĩ và nhà ông bác Phú Huệ, cũng là ông bác tôi nốt. Một giàn kèn đồng Tây bốn mươi chiếc thuê tận Thị xã Ô Lệ đồng loạt cất tiếng vang rền khi ba bước vào ngõ, làm xôn xao hơn một vạn hai dân Kô Long.
Cả nhà ông bà ngoại bần thần đứng nhìn ra như là chuyện của ai đó chứ không phải của nhà mình. Ông ngoại véo đùi một nhát thật đau. Oa chà!... Mơ hay thiệt ri bay! Lại véo đùi thêm một nhát thật đau nữa. Oa chà!... Mơ hay thiệt ri bay! Đã được báo trước cả tháng mạ vẫn bàng hoàng, bà choáng ngợp không đứng vững được nữa. Mạ ngã khụy xuống sân nhà, lấm hết bộ quần áo lụa màu mỡ gà ông ngoại phải bán đi một con bò con mới mua được. Trời, Phật tới nhà cũng đến thế mà thôi.
Mạ ngây ngất đến độ coi sự dửng dưng của ba trong đám cưới cũng như trong suốt ba mươi đêm bà vò võ đợi ông trên chiếc giường gỗ lát bốn chân quì rộng rinh rang, chạm trổ tinh vi trong căn buồng thơm nức mùi gỗ pơ-mu, không một lần ông bước vào, cũng chỉ là thử thách của thánh thần trước khi ban cho bà thứ ân huệ vĩnh hằng. Đêm thứ ba mươi mốt. Khi không còn tìm được bất kì lí do chính đáng nào để từ chối hợp cẩn với người đàn bà hơn mình hai tuổi, vì những thề thốt nặng lời của cha mẹ hai bên, buộc phải coi nhau là vợ chồng, ba mới chịu vào buồng.
Ba vén tấm màn che cửa uể oải bước vào, uể oải ngồi xuống cạnh mạ. Và ông ngáp, cái ngáp kiêu ngạo đáng ghét. Mạ giấu hân hoan vào bộ ngực đầy, giấu luôn đôi mắt long lanh chứa chan hy vọng. Bà ráng làm mặt giận, cố hắt ra một câu suốt ba mươi đêm vò võ một mình bà đã nhẩm thuộc làu, “Răng không đi luôn đi, vô đây mần chi!” Bà đã không nói được. Giận anh không? Khi ba cầm nhẹ tay bà thì thầm, bà đã bật khóc. Câu hỏi ngọt ngào của đàn ông đời bà chưa một lần được hưởng.
Sau một canh giờ ba ngạc nhiên nhận ra tòa thiên nhiên trong vòng tay ông không phải là thứ bỏ đi, còn hơn hẳn hết thảy những người đàn bà quyền quí từng rủ rê ông qua đêm không cần ở ông một điều gì, kể cả một lời hứa suông. Thật không ngờ, khuôn mặt rám nắng đã không có gì hấp dẫn lại còn lẫn một chút đần độn quê mùa của mạ lại che giấu một thân hình tuyệt hảo với làn da trắng lịm tươi hồng và cặp tuyết lê nở căng, vống ngược lên tràn trề vòm ngực. Đặc biệt bộ đùi non thon đều đến tận gót chân, mãi khi mạ đến tuổi năm mươi chúng vẫn là niềm mơ ước của các cô gái tân thời.
Đấy chẳng qua là những dụ dỗ ban đầu. Điều khiến ba hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác là khả năng sẵn sàng đáp ứng vô điều kiện của mạ trước những gì ông đòi hỏi với niềm háo hức dâng hiến đến kiệt cùng. Từ đêm hợp cẩn đầu tiên cho đến đêm cuối cùng trước khi ba lìa đời, cả khi mệt mỏi ốm đau, cả khi lâm vào tình trạng khô kiệt tuổi mãn kinh cũng không vì thế mạ làm ba phải thất vọng. Với năng khiếu ân ái thiên bẩm, mạ là người đàn bà duy nhất tạo cho ba có được niềm kiêu hãnh của đàn ông bất kì lúc nào ông lâm trận. Mỗi lần ngập vào bà, ông tựa hồ đang bơi lội trong bể tình không bến bờ nhiều bất ngờ thú vị. Dường như sau mỗi lần sinh nở, bể tình ấy lại đầy thêm, phủ một lớp sương mù bí ẩn, sực nức mùi giống cái khê nồng, rủ rê mời gọi...
Đến chết ba cũng không yêu mạ, bằng chứng hiển nhiên là ông không hề nhớ bà trong liên miên những lần xa nhà đi công tác. Dầu vậy mỗi lần rơi vào vòng tay ân ái của mạ là ba lấy lại được tức thì cảm giác đây là người đàn bà có một không hai, may mắn thay đó là vợ mình. Kết luận đứng đắn của ba sau rất nhiều dan díu với đủ hạng đàn bà.
Ngày mạ mất, chúng tôi tìm được mảnh giấy nhỏ lót trong chiếc kẹp tóc của bà. Mảnh giấy có chép câu thơ đúng chữ của ba. Ông đã chế tác bài thơ Hy Mã Lạp Sơn của Xuân Diệu thành câu thơ ca ngợi mạ: “Em là một là riêng là thứ nhất/ Không có ai so sánh được cùng em”. Câu thơ đề ngày 9/1/ 1990 trước ngày ba mất một ngày. Đây là một sự lạ. Suốt cả cuộc hôn nhân ba chưa hề khen mạ một điều gì, kể cả lời khen đãi bôi lặt vặt tỉ như về cái áo bà mặc, món ăn bà nấu... Câu thơ như một thú nhận hả hê của ba về mạ trước khi ông về trời.
Mạ suốt đời không biết người đàn ông nào khác ngoài ba. Không phải vì thứ đức hạnh truyền kiếp của đàn bà chân quê, mạ tự biết mình được hưởng phúc quá lớn, hơn vạn đêm được “quân tử nằm kề”, con số chính xác có trừ đi khoảng bốn ngàn đêm ba vắng nhà đi công tác hoặc qua đêm với một ai đó trong bốn chục người tình nửa nắng của ông. Điều duy nhất mạ quan tâm là làm sao ba không chán bà chứ không bao giờ dám nghĩ điều ngược lại. Việc ba liên miên chìm đắm vào tình ái với những người đàn bà khác không hề làm mạ mếch lòng, trái lại bà đinh ninh ông xứng đáng được như vậy. Mạ không cần đếm xỉa đến bao nhiêu lần ba ôm ấp người tình, bà chỉ cần biết thời khắc ông riết bà vào lòng, đẩy bà vào rên xiết, dù không ít lần ông là kẻ chiến bại, bẽ bàng nằm trơ trong hừng hực lửa tình chính ông đã đốt cháy lên, phải vất vả lắm bà mới làm nguội được. Thế cũng đủ cho mạ tôi hạnh phúc.
Hạnh phúc của mạ tôi giản đơn như cây cỏ, cứ vài ba năm lại vác cái bụng vượt mặt đi lại vênh vang giữa chợ phiên, hả hê chửi chồng như chửi chó mỗi lần vượt cạn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét