KCVR 5: ANH BẢY



Tôi nằm ngắm cái bóng ba đang ăn khoai. Cái bóng gập xuống, đầu rung rung xoay trở liên hồi. Cái bóng duỗi ra lúc la lúc lắc, hết nghiêng sang bên phải lại nghiêng bên trái. Lúc la lúc lắc khi gập xuống khi duỗi ra....Mấy động tác vớ vẩn đó cử động lặp đi lặp lại đơn điệu nhàm chán làm tôi díu mắt. Tôi thiếp đi lúc nào không biết.

Mở mắt trời đã mờ mờ sáng, ba đang cúi xuống nhìn tôi, ông ngồi ngắm tôi như thế đã lâu lắm. Tôi cảm động, muốn nói với ba một câu gì tiếc là không nói được. Ba bế tôi lên hôn đánh chụt. Con tui dậy rồi nì! Lại hôn đánh chụt. Con tui đây rồi nì! Và ông nói liên miên, vừa nói vừa nựng. Nhà mình đây con nì! Ba đây nì… mạ đây nì… chị Hai đây nì… anh Tám đây nì… anh Chín đây nì... Anh Ba đi Bulgaria rồi. Chị Cả lấy chồng bên Xóm Cống tề, mai mốt răng rồi chị cũng tới thăm con. Còn anh Bảy nữa. Anh Bảy đang đi bắt cá chưa về...

Đúng rồi! Còn một người nữa tôi chưa kể, đó là anh Bảy, con thứ bảy trong gia đình. Tiếng là thứ bảy nhưng anh đứng thứ tư, ba anh trai kề anh chết đồng loạt vì bệnh đậu mùa năm 1950.

Anh Bảy là người trong gia đình tôi biết sớm nhất. Anh rất ít khi có mặt vào hai bữa cơm, giờ đoàn tụ của cả nhà là giờ anh đi đặt trúm lươn, thả cần câu cá lóc, cất vó tôm đất. Quá nửa đêm cả nhà ngủ say như chết anh mới mò về. Anh xổ hết cá và lươn vào cái chum vỡ trước sân rồi ngồi tựa vách ngủ cho đến sáng. Nhà vẫn còn chỗ ngủ nhưng đây là giờ ba mạ “vật nhau”, anh không vào, chấp nhận ngủ ngồi ngoài vách.

Chín tháng trước giờ này tôi đang ở vị trí 105 buồng trứng bên phải hồi hộp theo dõi ba trườn lên mạ dập rất mạnh. Mạ hức hức lên mấy tiếng, rùng mình mấy cái. Tôi đã quen tiếng hức hức và cái rùng mình hằng đêm của mạ. Lần này lạ lắm. Sau cái rùng mình là một luồng hơi lạnh làm mát lạnh cả hai buồng trứng. Một tinh trùng đâm thẳng vào cái trứng của tôi và nằm yên ở đấy. Từ nơi tinh trùng đâm thủng vầng hào quang màu lá mạ lẫn với màu nâu đỏ trùm lên cái trứng của tôi, tỏa sáng lóng lánh. Đấy là thời khắc tôi nhận được chứng chỉ làm người.

Mưa ập xuống bất ngờ. Mạ kéo quần lên nhóng cổ hỏi chõ ra. Mi ở ngoài nhà phải không Bảy? Anh Bảy dạ, tiếng dạ khô như bánh đa. Mạ hơi ngượng, bà biết anh Bảy đã nghe tiếng hức hức của bà. Mưa dữ dội, bốn bức vách mưa đập rung bần bật. Mạ ngồi dậy giục anh Bảy. Vô nhà đi con, mưa to ướt hết chừ. Biết ba mạ đã rời nhau, anh Bảy chui vào nhà. Tu cạn một gáo nước lã anh rơi xuống dưới chân ba mạ ngủ như chết. Tôi biết anh Bảy từ thuở ấy.

Khoảng sáu giờ chiều hôm qua mạ đi chợ về. Tôi ngồi thu lu trong bụng bà, chập chờn những giấc mơ màu lá mạ lẫn màu nâu đỏ. Kể từ tháng thứ tám, những giấc mơ yes or no màu lá mạ lẫn màu nâu đỏ ngày một dày lên, đôi khi làm tôi tỉnh giấc. Lần này cũng thế. Tiếng trống tiếng thanh la tiếng hò hét rộn ràng ngoài khoang bụng. Có cái gì đó nong nóng và ngưa ngứa râm ran từ vùng rốn lan tỏa khắp người, tôi tỉnh giấc. Những lần trước chỉ tỉnh lơ mơ, lần này tỉnh hẳn. Thì ra mạ đang mang tôi đi qua một đám rước hay mét tinh gì đó.

Thị trấn Kô Long của tôi rất thích tổ chức những đám rước và mét tinh. Thường thì các đám rước dần tụ lại thành mét tinh hoặc từ mét tinh tỏa ra thành các đám rước, gọi là đi-cổ-động. Đám rước mà mạ tôi đang đi qua là đám rước của trẻ con, Đội Nhi đồng Tháng Tám của Thị trấn, tập thể của lũ đứa trẻ hỉ chưa sạch mũi, anh Bảy của tôi có trong đó. Đám rước của anh Bảy, gọi vậy cho nhanh, chia làm ba khúc, mỗi khúc chừng ba chục mét, gõ trống khua thanh la ầm ĩ. Anh Bảy được chọn làm người dẫn đầu khúc cuối đám rước. Đấy là niềm vinh dự vô song của bất kì đứa trẻ nào sống ở thời này. Đám rước nào cũng có hai phần rõ rệt: phần đả đảo và phần muôn năm. Đây là đám rước của trẻ con, chúng luôn luôn hưởng ứng những cuộc đi chơi hồ hởi phấn khởi thế này, muôn năm đả đảo gì cũng được tuốt.

Nhiệm vụ lũ trẻ phải hô sao cho đúng. Rõ là nhiệm vụ bất khả thi, nắn chỉnh bao nhiêu chúng cũng hô sai. Sau năm bảy phút nghiêm ngắn trước những cái nhìn nghiêm nghị của các anh chị phụ trách, đám rước bắt đầu rối loạn. Chúng xô đẩy, cấu chí nhau và nói chuyện râm ran suốt cả hành trình. Chẳng đứa nào biết hiệp thương là cái gì, vì sao phải hiệp thương, lũ trẻ chỉ xem chừng người phụ trách hô “muôn năm” hay “đả đảo” để hưởng ứng cho kịp thời mà thôi.

Khoảng năm trăm mét đầu tiên tất cả đều nhịp nhàng, kẻ hô người hưởng ứng cứ răm rắp, hoàn toàn toát lên khí thế hào hùng, khí thế mà Thị trấn quê tôi từ trẻ đến già luôn luôn muốn chứng tỏ. Sau đó là tá hỏa tam tinh, đầu đoàn hô muôn năm, cuối đoàn hô đả đảo. Khiếp, nhặng xị cả lên. Các anh chị phụ trách sau nửa chặng đường hồ hởi phấn khởi điều khiển đám rước, đã đến lúc thấy mệt và chán. Nửa chặng đường còn lại chỉ độc mỗi nhà dân, các trụ sở công cộng - địa điểm ghi nhận nỗ lực hồ hởi phấn khởi của họ - đã cách một quãng khá xa. Không ai còn thấy hứng thú điều khiển đám rước nữa, họ thây kệ lũ trẻ muốn hô thế nào thì hô.

Hai đứa phụ trách khúc đầu và khúc giữa sau hơn một giờ hô hét rã họng mỏi mồm, chẳng còn thiết tha gì với niềm vinh dự số một, chúng nhảy vào đoàn đấm đá cấu chí với lũ trẻ. Lâu lâu chúng lại nhảy ra hô độc mỗi muôn năm hoặc đả đảo, thứ ngôn ngữ vừa đủ để hướng dẫn đám rước đi đến đích cuối cùng, tức thành công rực rỡ.

Anh Bảy của tôi thì không, trời phú cho anh một tinh thần trách nhiệm phi thường. Việc nhà cũng như việc công chưa khi nào anh từ chối khi được giao việc, cũng chưa khi nào được giao việc mà anh không hết mình. Gần một trăm bằng khen giấy khen trong ba chục năm anh làm công nhân nhà máy đường đã chứng minh điều đó. Mặc cho hai thằng đầu đàn khúc đầu và khúc giữa đã bỏ cuộc, anh Bảy vẫn ngước mặt đi đều. Anh vung nắm đấm quát to. Đả đảo Ngô Đình Diệm phá hoại hiệp thương! Lũ trẻ nhóm này đua nhau vung tay tranh nhau quát tháo.Đả đảo đả đảo đả đảo! Nhóm kia đua nhau vung tay tranh nhau quát tháo. Phá hoại phá hoại phá hoại! Nhao nhao nghe như ngỗng cãi nhau.

Cha tổ bay, hô cho đều vào! Anh Bảy trừng mắt quát. Lũ trẻ chẳng thèm để ý đến anh, chúng xô đẩy chọc ghẹo nhau chí chóe. Anh Bảy vung cao nắm đấm quát to. Hồ Chủ Tịch muôn năm! Lập tức lũ trẻ nhao nhao quát theo. Muôn năm muôn năm muôn năm! Người phụ trách lo lắng nhắc ngay. Hô thôi, không được quát. Cấm không được em nào quát. Dù vậy đây là khẩu hiệu được hô nhịp nhàng nhất. Chục năm sau khẩu hiệu nhịp nhàng này được thay bằng khẩu hiệu: Hồ Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta! Thế là lại cãi nhau, đứa hô sống mãi, đứa hô chúng ta. Có đứa bố láo còn hô Của! Của! Của!

Lũ trẻ vẫn chẳng thèm để ý đến anh Bảy, chúng xô đẩy chọc ghẹo nhau chí chóe. Cha tổ bay, tập hô cho đều vào! Anh lại trừng mắt quát. Đả đảo Ngô Đình Diệm ! Anh Bảy hô. Chẳng cần biết Ngô Đình Diệm là thằng cha căng chú kiết nào nhưng nhiệm vụ của lũ trẻ phải căm thù hắn. Lòng căm thù đã khiến bọn trẻ điên tiết văng tục, đứa hô đả đảo đứa hô đụ mạ. Hễ anh Bảy hô: “Đả đảo Ngô Đình Diệm!” là có đứa hô tiếp theo “Đụ mạ Ngô Đình Diệm!” Và lập tức được hưởng ứng rào rào: “Đụ mạ! Đụ mạ! Đụ mạ!” May đây là đám rước trẻ con, người ta bỏ qua sự lộn xộn lếu láo này. Nếu là đám rước người lớn sẽ to chuyện đấy, không phải chuyện đùa.

Anh Bảy đang hướng dẫn cho khúc cuối hô muôn năm, khúc đầu bỗng nhiên hô đả đảo. Anh chạy vọt lên khúc đầu tay chỉ miệng quát. Phải hô muôn năm... phải hô muôn năm... không được hô đả đảo! Lũ trẻ khúc đầu hưởng ứng tức thì, chúng rập ràng hô muôn năm. Khúc cuối chẳng hiểu sao lũ trẻ bỗng rộ lên hô đả đảo. Anh lại vọt về khúc cuối tay chỉ miệng quát. Phải hô muôn năm... phải hô muôn năm... không được hô đả đảo! Lũ trẻ khúc cuối nhao nhao phản đối. Tụi tau muốn hô chi thì hô, mi cấm được à! Anh Bảy hét lên một tiếng kinh hồn, anh nhảy vào lũ trẻ đấm đá điên cuồng.

Đuôi đám rước tán loạn. Không đứa nào dám chống lại anh Bảy, chúng chỉ xoay quanh chọc tức anh mà thôi. Hệt một đám ruồi bấu quanh cục xương di động, anh Bảy xông tới, chúng tản ra. Anh quay lung, chúng xúm lại chõ mồm trêu ghẹo anh. Đầu đám rước thấy đuôi đám rước tán loạn cũng tán loạn theo. Cả đám rước như ong vỡ tổ, đứa hét đứa hô đứa đấm đá nhốn nháo bất tận, rốt cuộc cả đám rước đua nhau đánh trống, gõ thanh la ầm ĩ cả lên.

Tôi rất phấn khích. Tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng hô rập ràng với tôi thật kỳ ảo. Cả tiếng cấu chí, tiếng hò hét đuổi bắt nhau và cuộc đánh nhau bất tử của anh Bảy với lũ trẻ cũng làm tôi sướng rêm. Lũ trẻ đột khởi cất tiếng hát, rõ ràng là tiếng hát của đuôi đám rước đã bị đầu đám rước bỏ rơi chừng nửa cây số. Đầu đám rước vẫn say sưa hô muôn năm và đả đảo, thây kệ đuôi đám rước có đuổi kịp hay không. Thành công rực rỡ đang đến gần, mắc mớ gì phải đợi chờ kẻ khác. Đuôi đám rước sau một hồi bị anh Bảy thúc giục vừa chạy vừa hô vẫn không đuổi kịp đầu đám rước, chúng bắt đầu tìm đến thành công rực rỡ theo cách của mình.
Hà Nội lắm ô tô,
Liên Xô lắm máy cày,
Trung Quốc thì nhiều máy bay,
Đánh cho giặc Mỹ bươu đầu....

Lúc đầu chỉ một vài đứa đầu têu réo lên vài câu hát vu vơ rời rạc. Dần dần cả cái đuôi đám rước bị bỏ rơi đồng loạt cất lên nhịp nhàng, có ý báo cho đầu đám rước biết: chúng mày bỏ rơi chúng tao thì chúng tao không thèm hô nữa. Anh Bảy hốt hoảng nhảy ra đầu khúc cuối tay khua miệng hét. Ê ê... không hát không hát!... Phải hô khẩu hiệu! Thây kệ anh Bảy hò hét, lũ trẻ vẫn vỗ tay đập nhịp hát rập ràng. Anh Bảy bật khóc vì bất lực, nghiến răng ngậm miệng mặc lũ trẻ muốn làm gì thì làm. Chán quá anh cũng đành vỗ tay đập nhịp hát theo lũ trẻ.

Bài hát đưa ra một loạt đồ chơi đến Chúa cũng phải thèm. Tôi sướng lịm sườn và quyết định tức thì, cần phải ra Đời ngay lập tức, mặc kệ nguyên tắc tiền sử phải ở trong bụng mẹ cho đủ chín tháng mười ngày. Tôi đạp mạnh vào thành bụng mạ. Bà thét lên một tiếng rụng rời, tiếng thét của người bị dao cùn hoặc dằm gỗ đâm trúng ngực. Mạ ngã lăn ra đường quằn quại. Tôi ân hận quá, hậu quả của việc vi phạm nguyên tắc tiền sử đã giáng xuống đầu mạ. Tôi lặng lẽ đưa chân về đúng vị trí bắt buộc của nguyên tắc tiền sử, tập trung lắng nghe xem mạ có kêu rên nữa không. Mạ vẫn không thôi quằn quại, bà rên rỉ như người sắp chết... Một thứ nước vàng vàng đặc sệt chảy xuống gót chân bà.

Mạ sắp đẻ rồi! Anh Bảy kêu lên, chạy tới đỡ lấy mạ. Mới mười tuổi đầu không thể cõng được mạ, anh loay hoay tính xem có nên nhờ người lớn giúp đỡ hay không. Bản tính không muốn nhờ cậy khiến anh chần chừ, ngay cả việc chạy lên huyện ủy gọi ba, anh cũng chần chừ. Việc gì có thể tự mình giải quyết được, dù có khó khăn gian khổ bằng giời anh cũng nói không với mọi đề nghị giúp đỡ. Mạ biết tính anh Bảy, bà không bảo anh làm cái nầy làm cái kia, tự anh biết phải làm gì, sai bảo là thứ anh rất ghét.

Ba bốn người đàn bà đi chợ về lật đật chạy tới dìu mạ. Để tụi tui đưa chị về trạm xá! Họ đề nghị chân tình. Thôi… cứ để thằng cu nó lo. Mạ nhăn nhó từ chối. Mấy bà không chịu cứ xúm lại tính dìu mạ đi. Để mạ tui đó cho tui! Anh Bảy trợn mắt lên nhảy bổ tới quát còn to hơn hô khẩu hiệu. Các bà giật mình né ra, ai nấy thè lưỡi rụt cổ. Anh Bảy chạy vào nhà ai đó cạnh đường, kéo ra chiếc xe ba gác. Mạ chịu khó ngồi lên đây. Anh hổn hển nói. Mọi người xúm lại đỡ mạ lên xe. Anh ráng hết sức kéo mạ băng băng. Khiếp chưa ông Trương Phi nhà ông cu Vũ. Mấy bà đi chợ nhìn theo anh lắc đầu cười nói. Thế là anh Bảy có thêm một biệt danh.

Anh Bảy không dại dột đưa mạ về trạm xá Thị trấn. Rất ít người đưa bệnh nhân đến đó, nơi chỉ có hai người đàn bà dở hơi chỉ biết hỏi: “Đau chi?” và quát: “Làm chi mà đưa đến chậm rứa!”. Ngoài hỏi và quát họ không còn biết làm gì, thực tình cũng chẳng làm được cái gì ở một trạm y tế luôn lấy rỗng không làm căn bản. Cho đến bây giờ, năm 2015 nhé, trạm xá Thị trấn Kô Long vẫn nguyên xi như vậy. Vẫn lấy rỗng không làm căn bản. Vẫn hai người đàn bà, mỗi khi đưa bệnh nhân đến họ vẫn hỏi: “Đau chi?” và quát: “Làm chi mà đưa đến chậm rứa!”. Có khác là hai người đàn bà năm 1956 đã chết, thay vào đó là hai người đàn bà năm 2015.

Anh Bảy đưa mạ về chuồng bò vào đúng giờ cơm tối, quên, giờ khoai tối của nhà tôi. Chị Hai cuống quít chạy ra lo lắng hỏi. Mạ răng rứa... mạ răng rứa? Mạ đẻ chơ răng. Anh Bảy nhăn nhó nói. Cái mặt nhăn nhó của anh Bảy muôn năm không chỉnh sửa được. Chị Hai vội vã cùng anh Bảy dìu mạ vào nhà. Anh Tám, anh Chín - hai anh trai hỉ chưa sạch mũi của tôi - sướng phát điên lên, ôm nhau nhảy cà tẩng. A mạ đẻ mạ đẻ!... A mạ đẻ mạ đẻ! Với họ mạ đẻ hay mèo đẻ đều là những việc mới lạ, đều là những niềm vui bất ngờ.
Cút đi cho mạ đẻ! Anh Bảy quát nhặng cả lên. Anh lùa anh Tám anh Chín sang nhà bác Đông ăn nhờ ở nhờ. Biết bác Đông gái bị ốm, anh ba chân bốn cẳng chạy đi gọi bà đỡ khác, rồi ba chân bốn cẳng lên huyện ủy gọi ba. Thế là xong. Anh Bảy túc tắc xách nò ra hói đơm cá, không cần biết mạ đẻ đái ra sao. Anh không coi việc tôi sắp ra đời là quan trọng, càng không phải là niềm vui. Nó chỉ báo cho anh biết nhà sắp phải chia thêm một bát cơm, ba mạ phải kiếm thêm một ngày ba hào, anh phải kiếm thêm một cân tôm hoặc một oi cá bất kể nắng hay mưa mang ra chợ bán, bổ sung vào túi tiền luôn thiếu hụt của nhà tôi.

Nếu ba anh trai kề anh Bảy còn sống, chắc anh không phải làm gì ở tuổi lên mười. Giờ đây mọi việc của ba anh trai đổ lên vai anh. Hiếm ai có tuổi thơ bận rộn như anh. Đêm của anh không phải để ngủ. Anh lặn lội dọc bờ hói, lọ mọ hết bờ cao đến ruộng thấp bẫy cá bắt tôm. Ngày không phải để chơi, anh lúi húi sửa nò đan trúm chuẩn bị cho đêm. Khó nhọc đã đè nặng lên chú bé mười tuổi, rất ít khi anh cười. Gương mặt cau có ưu tư, luôn thảng thốt về một điều gì chưa kịp làm. Đến tuổi tám mươi anh vẫn có gương mặt ấy không có gì thay đổi. Gương mặt của anh Bảy nhiều vô số ở Thị trấn Kô Long. Gần thế kỉ rồi dân Kô Long đa số đều có gương mặt bất biến như anh Bảy. Trừ dân vãng lai, những ai sống trên đất Kô Long, bất kể sống lâu hay sống ít, đều giống hệt nhau những gương mặt thiếu sữa, trẻ đăm chiêu già và già ngẩn ngơ trẻ.

Vào lúc mưa gió ầm ầm, anh Bảy chạy về nhà lần thứ hai. Cái rớ... cái rớ mô rồi? Anh lật đật hỏi trống không. Điên khùng bới tìm cái rớ rách, anh không cần biết cả nhà đang tao tác vì hai mái chuồng bò đã bị gió bốc lên trời, tôi vừa ra đời và đang ngập ngụa trong nước. Anh vừa bới vừa kêu ca rầm rĩ việc cả nhà luộm thuộm đã vứt cái rớ rách của anh đi đâu, trong khi anh đã phát hiện ra luồng cá bống hàng ngàn con theo nước nguồn bơi về đen đặc giữa hói nước lợ. Chị Hai vén cái bạt lên chỉ tôi cho anh. Bảy… em đây nì! Mặc, anh không thèm để ý. Cái rớ rách mới quan trọng chứ không phải là tôi. Cái rớ rách mới là điều cốt tử, cá bống kho cho người đẻ mới là điều cốt tử.

Cuối cùng anh Bảy cũng tìm được cái rớ rách, thì ra nó nằm dưới lưng mạ tôi. Lúc này anh mới chui vào bạt, thò bàn tay lạnh ngắt cầm lấy cổ chân tôi lắc lắc. Lạnh em hè! Anh vui vẻ nói. Mi rồi cũng khổ thôi em...Câu tình cảm hiếm hoi anh Bảy dành cho tôi. Anh lại lao như tên bắn ra con hói có hàng ngàn con cá bống đang về, nguồn dinh dưỡng tuyệt hảo cho người đẻ. Mạ đang rất cần những con cá bống, anh chỉ đinh ninh mỗi điều đó, tất cả đều không đáng quan tâm.

Quá nửa đêm anh Bảy vẫn chưa về, còn lâu anh mới về giờ này, đây là giờ anh đi thăm các bẫy lươn. Ba mươi lăm cái trúm ngậy mùi giun đất xào với lá ổi tươi được găm rải dọc bờ hói, nhử những chú lươn ngờ nghệch háu ăn. Một con lươn to là hai hào, mười con là hai đồng. Vì hai đồng anh sẵn sàng bỏ nhà thức trắng đêm bên bờ hói.

Đêm nay anh Bảy gặp may, bắt được hơn chục con lươn to và hai oi (hom giỏ) to đầy cá bống. Cái chòi rơm tạm bợ bên bờ hói đã bị cơn lốc hồi hôm đánh cho tơi tả. Không ngủ lại đấy như mọi đêm, anh mang về nhà đổ tất cả vào cái vại sứt trước cửa chuồng bò. Anh ngồi tựa vào vách chuồng bò mê mệt ngủ, vào lúc tôi tròn xoe mắt nhìn ba đang ngồi nhìn đống vỏ khoai với hai hàng nước mắt .

0 nhận xét:

Đăng nhận xét