KCVR 6: ĐỘI TRƯỞNG



Mạ đang chìm trong giấc ngủ thỏa thuê sau bốn giờ vất vả kéo cổ tôi ra Đời. Gương mặt mạ thật thảnh thơi và yên tĩnh, ấy là gương mặt trời cho. Khi mạ ngủ mọi chuyện trên đời đều về more, gương mặt bà bình yên quá đỗi. Tôi nằm yên bên mạ, lắng nghe nhịp tim và hơi thở của bà thấy đời sao mà thênh thang yên tĩnh quá. Tôi thèm nhịp tim và hơi thở ấy nhưng suốt đời không thể có một lần. Cho đến già tôi vẫn thích nằm bên mạ để được nghe nhịp tim và hơi thở không hề vướng bụi sân si.

Ba không thế, ông thao thức nhiều hơn ngủ. Ít khi ba nói cho con cái biết ông đang lo lắng điều gì. Nhịp tim 2/4 và 4/4 của ông không giấu được đàn con. Hơi thở khó giấu hơn, nó luôn kéo dài bất thường cùng với những tiếng hắt ra khó chịu. Đêm không giấu được ngày lại càng không. Vẫn nói cười như không có gì xảy ra nhưng ba chẳng giấu được ai, thỉnh thoảng vẫn thấy ông ngồi đực mặt, đôi mắt buồn như khóc.

Từ ngày ông bác Vĩ “dinh tê” vào Sài Gòn, ba mất hẳn mọi nguồn tiếp tế. Chẳng riêng gì ba, cả dòng họ Phạm đất Kô Long đều mất nhờ. Dòng họ Phạm hãy còn có một nguồn tiếp tế nữa là ông bác Phú Huệ, anh cùng cha khác mẹ với ông bác Vĩ, giàu có cự vạn không kém gì ông bác Vĩ. Nhưng ông bác Phú Huệ đã dựng một cánh cửa sắt cao ba mét, phía trong là một đội chó Becgie mười một con luôn sẵn sàng xé xác bất cứ ai “Không liên quan” dám bạ men. Triết lý “Không liên quan” của ông bác Phú Huệ nổi tiếng khắp Thị trấn. Người ta không tìm thấy ai có liên quan với ông Phú Huệ trừ chín đứa con đẻ của ông. Con đẻ thôi nhé, dâu rể của ông cũng thuộc loại “Không liên quan.”

Giá như ông bác Phú Huệ có rộng bụng hào hiệp như ông bác Vĩ, ba tôi và dòng họ Phạm ở Kô Long cũng chẳng được nhờ. Ông bác Phú Huệ không còn ở Kô Long từ lâu rồi. Trước khi nghe tin Đội cải cách ruộng đất sẽ về, ông bác Phú Huệ với cái mũi tinh nhậy không kém mũi ông bác Vĩ đã cao chạy xa bay. Ruộng đất không có nhưng nhà Phú Huệ có cả một núi tiền. Tiền còn nguy hiểm hơn ruộng đất. Treo trước cổng cái biển: “Nhà đã bán”, ông bác Phú Huệ đã lẻn đi trong đêm, không biết đi đâu. Người bảo đang ở Hà Nội, kẻ bảo đang ở Viên Chăn, vài năm sau nghe nói ông bác Phú Huệ buôn bán phát đạt ở Băng Cốc.

Ngôi nhà ấy đã bị cách mạng trưng thu, chẳng cần biết ông bác Phú Huệ bán nhà thật hay diễn trò bán nhà để thoát thân. Nếu ông bác còn ở nhà chẳng những cái nhà bị trưng thu mà cái đầu Phú Huệ cũng bị trưng thu nốt. Cách mạng không thu hồi được của cải nhà Phú Huệ trừ đội chó becggie mười một con, Đội cải cách của Đội trưởng làm món chó thui chén một tháng trời mới hết.

Ông bác Phú Huệ ở đâu, có về quê nữa hay không chẳng mấy ai quan tâm, vì ai cũng thuộc diện “Không liên quan” với nhà Phú Huệ. Ba cũng thế thôi, ông là con thừa tự của ông bác Vĩ có gần gũi với ông bác Phú Huệ hơn tí chút thì cũng không thể vượt qua triết lý “Không liên quan” trời đánh kia. Ông bác Phú Huệ có ở Kô Long hay không thì thu nhập của ba cũng chỉ sáu mươi bảy đồng năm hào, lương của phó ban tuyên huấn huyện ủy. Thà nằm mơ Cách mạng đem về cơm no áo ấm còn hơn ngồi chờ ông bác Phú Huệ gọi tới nhà cho mượn tiền, ấy là bài học cả họ Phạm rút ra sau nửa thế kỉ đứng trước cái cổng cao ba mét và mười một con chó Bec giê.

Sáu mươi bảy đồng năm hào không gánh nổi gia đình bốn đứa con vừa có thêm tôi là năm (Chỉ tính những đứa con ba mạ đang nuôi, không tính chị Cả ra riêng, anh Ba đi nước ngoài và ba anh trai đã chết). Ba không thể làm thêm gì, đảng viên không được chân trong chân ngoài, đó là điều cấm kị. Vả, dầu có được phép làm them, ba cũng chẳng có việc gì để làm. Ruộng đất vườn tược đã sung vào hợp tác, đống chữ nghĩa ông có từ thời Pháp thuộc chẳng những không dùng được để kiếm sống mà còn có nguy cơ gây hại ông bất cứ lúc nào. Ba đang cố công tẩy não cho bằng hết đống chữ nghĩa kia, khốn thay cái trời phú cho ông đã làm hại ông, chữ nghĩa đã lọt vào đầu ông hầu như không có lối thoát.

Một ngày ở Ban tuyên giáo huyện bằng ngàn thu ở ngoài. Buổi sáng đúng bảy giờ không sai một phút cả năm cái bàn đủ người, ai nấy dán mắt vào đống tài liệu “nghiên cứu” say sưa. Ba biết chắc chẳng ai thèm đọc, bởi vì ông cũng thế. Đọc cái gì khi chưa đọc người ta đã biết trong đó nói gì. Đến tám giờ ông trưởng ban báo ông đi họp chỗ nọ chỗ kia, hai anh chuyên viên báo về cơ sở chỗ nọ chỗ kia, cô văn thư báo đưa công văn đến chỗ nọ chỗ kia. Một mình ba trơ khấc cùng với năm cái bàn trống. Không phải ba không biết nói dối, ông thừa sức bịa chuyện như bốn người kia. Việc đó dễ như lấy ra từ túi áo. Ba rung đùi chối bỏ việc đi “chỗ nọ chỗ kia”, quyết không rời khỏi căn phòng ám khói này chỉ vì ông muốn bảo toàn sáu mươi bảy đồng năm hào. Nếu bỏ chạy lăng nhăng chẳng kiếm được xu nào thì thà ngồi một chỗ đọc báo sướng hơn, tiền không mất lại được tiếng chăm chỉ.

Ba đọc báo Nhân Dân từ chữ đầu tiên cho đến chữ cuối cùng là giá báo, rồi đọc ngược từ chữ giá báo lên đến chữ đầu tiên vừa đọc vừa dò lỗi chính tả, rồi đọc từ chữ đầu tiên đến chữ giá báo vừa đọc vừa gạch đít và đánh dấu những chỗ quan trọng, rồi đọc ngược từ chữ giá báo lên đến chữ đầu tiên vừa đọc vừa phân loại bài, lại đọc từ chữ đầu tiên đến chữ giá báo vừa đọc vừa rút ra những gì cho công tác tuyên giáo. Ba nổi tiếng khắp tỉnh thành tích thuộc làu báo Nhân Dân. Với trí nhớ phi phàm ông có thể nhắm mắt đọc ngược từ chữ giá báo đến chữ đầu tiên không vấp một chữ nào, cán bộ đảng viên khắp tỉnh phải kinh sợ.

Chẳng ai biết ba đọc báo Nhân Dân để khỏi phải chạy lăng nhăng, kiên quyết không để một xu nào rơi rụng trong tổng số sáu mươi bảy đồng năm hào, món tiền duy nhất trong tháng ông có. Thêm nữa, đọc báo Nhân Dân cũng là cách hữu hiệu để tẩy cho sạch món “văn hóa lai căng”, “văn hóa độc hại” ông lỡ thu nạp thuở học trò mà ông gọi là tự tu. Công cuộc tự tu của ba thành công đến nỗi từ chỗ coi báo Nhân dân là món để giải khuây, đến chỗ niềm tin của ông hoàn toàn gắn bó với từng chữ của tờ báo rộng bằng nửa chiếc chiếu đơn này, từ chữ đầu tiên đến chữ cuối cùng là giá báo. Ba coi đó là sự thật trên cả sự thật, sự thật muôn vạn lần hơn.

Năm 1969 Hồ Chủ Tịch qua đời, ba đã nằm khóc ướt cả chiếc võng dù, ai dỗ thế nào cũng không nín. Lúc đó tôi 15 tuổi, xin xác nhận chiếc võng dù ướt đẫm nước mắt chân thành, kết quả tự tu mấy chục năm kiên định của ba. Không ai ép ba phải tự tu cả, ông tự nguyện làm việc đó chỉ vì ông tin món văn hóa có được từ thời Pháp thuộc là lai căng thật, độc hại thật. Trước đó thì không, không bao giờ ba tin tưởng ngớ ngẩn như vậy. Vốn tri thức ông có thực ra cũng chẳng ghê gớm gì, tuy vậy vào thời quá nửa số dân không biết chữ chúng là niềm kiêu hãnh và hy vọng của ông. Kiêu hãnh vì hơn người, hy vọng để giúp đời. Trước khi bản án tử hình giáng xuống đời ông, đó là niềm tin bất hủ.

Chỉ sau khi thoát khỏi bản án tử hình ba mới giật mình nhận ra tất cả những gì ông học được chẳng những vô ích vô nghĩa vô tích sự mà còn vô cùng nguy hiểm. Ba đã lẳng lặng nhúng niềm tin bất hủ ấy xuống bùn đen. Có hai mươi bốn chữ cái thôi người ta có thể tùa thành hai loại đỏ đen, bên này chữ đỏ bình an vô sự vinh thân phì gia, bên kia chữ đen thân tàn ma dại khuynh gia bại sản. Kể từ đó ba biết sợ chữ nghĩa. Ông tự biết nếu không khẩn trương tự tu thật thành khẩn, bản án tử hình sẽ quay lại với ông bất cứ lúc nào.

*

Bản án tử hình đến với ba trước khi tôi ra đời một trăm hai mươi ngày, ngày cuối cùng năm 1955. Năm đó ba đương kim chủ tịch Thị trấn Kô Long. Ông làm chủ tịch Thị trấn được mười năm, từ cuộc cách mạng long trời lở đất năm 1945 đến cuộc cách mạng long trời lở đất năm 1955, gọi là Cải cách ruộng đất. Ba được chỉ định làm chủ tịch Thị trấn trong một cuộc họp chi bộ, từ đó làm miết trong mười năm chẳng ai bảo lên cũng không ai bảo xuống. Thứ chức vụ chỉ định không qua bầu bán vai trò cũng chẳng khác gì thằng mỏ. Lương lậu tất nhiên không có. Ông chủ tịch Thị trấn chỉ có hai việc, nhận chỉ thị cấp trên phổ biến xuống quần chúng, tổng hợp việc làm quần chúng báo cáo lên cấp trên, có vậy thôi.

Trong Cải cách ruộng đất chủ tịch thị trấn Phạm Vũ năng nổ làm chân điếu đóm cho Đội trưởng, theo đúng nghĩa đen của từ này. Đội trưởng mới thực là người có uy quyền số một Thị trấn. Từ ngày Đội cải cách về Kô Long, Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ làm đúng hai việc, một là lo đủ cơm rượu cho Đội cải cách, hai là làm điếu cày và kiếm thuốc lào cho đồng chí Đội trưởng.

Đồng chí Đội trưởng là ai?

Cao một mét tư, vòm ngực rộng chân tay vạm vỡ gân guốc, đồng chí Đội trưởng vốn là lực điền số một làng Trung, chuyên cày thuê cuốc mướn cho cả làng. Là tay chân thân tín của Lý trưởng làng Trung, đồng chí phụ trách việc cầm dao phay đi đòi nợ, đòi thuế điền thổ và thuế thân cho ông Lý. Nợ và thuế là hai thứ ở đâu dân chúng cũng cù nhầy lần lữa, nếu không có đồng chí Đội trưởng xách dao phay đến tận nhà, khó lòng ông Lý tận thu được hết. Là chỗ thân tín, đồng chí Đội trưởng được vào ra nhà Lý trưởng làng Trung thoải mái bất kể ngày đêm, cơ hội để đồng chí ngủ hết lượt ba bà vợ trẻ của ông Lý.

Cả ba bà chưa có ai có con với Lý trưởng làng Trung, tự nhiên có chửa đồng loạt, ông Lý không thể không nghi ngờ. Ông Lý không ghen, chỉ muốn biết thực hư thế nào để có cớ thảy cả ba bà ra khỏi nhà, tậu về ba bà khác. Ông Lý tính làm vậy lâu rồi, kẹt vì chưa tìm được nguyên cớ. Lý trưởng làng Trung không hề biết đồng chí Đội trưởng mắc chứng vô sinh, không bà nào có chửa với đồng chí, họ có chửa với hội tổ tôm của ông Lý. Sau này ba bà sinh con, dân làng Trung kháo nhau một đứa giống ông Xã trưởng như lột, một đứa giống ông Lý Cựu như đúc, một đứa vừa hao hao giống ông Hương Cả, vừa hao hao giống ông Hương Sư, vừa hao hao giống ông Hương Bộ, vừa hao hao giống ông Hương Hào, vừa hao hao giống ông Hương Thân, vừa hao hao giống ông Hương Quản, vừa hao hao giống ông Hương Trưởng, vừa hao hao giống Hương Chánh… Gần hết Ban hội tề làng Trung.

Sai bét hết. Ba bà ngủ hết lượt Ban hội tề cũng là hội tổ tôm làng Trung nhưng chỉ có con với một người, đó là Lý Trưởng làng Trung. Vì sao như vậy thì chỉ có trời biết. Vì sao họ đồng loạt có thai với ông Lý cũng chỉ có trời biết. Giá trời nói cho Lý Trưởng làng Trung biết cả ba bà đều có thai với ông Lý và đều có con trai, ông Lý sẽ mổ bò ăn mừng chứ không phải đi rình đồng chí Đội trưởng. Ông trời quan liêu không chịu nói để ông Lý phải bày mưu mai phục ba bà vợ. Ông Lý xách tráp ra khỏi nhà nói là đi đánh tổ tôm suốt đêm không về, rồi quay lại rình và bắt được quả tang. Điều ấy chẳng có gì đáng kể, rình thì bắt được thôi có gì lạ đâu. Đáng kể nhất là những gì ông Lý chứng kiến trong đêm núp rình đó.

Đầu hôm ông Lý thấy đồng chí Đội trưởng ngủ với bà Ba ở cây rơm. Ông Lý sáng tác ra cây rơm để làm tình với các bà vợ vào những đêm gió mát trăng thanh. Cây rơm sạch sẽ thơm tho, lưng lót chiếu hoa đít kê gối cỏ, là sáng tác độc nhất vô nhị của Lý trưởng làng Trung, tưởng rằng mỗi mình ông Lý được hưởng ai ngờ đồng chí Đội trưởng đã chiếm đoạt nó từ lâu. Chưa hết ngạc nhiên, giờ sau ông Lý thấy đồng chí ngủ với bà Hai ở nhà ngang, giờ sau nữa thấy đồng chí ngủ với bà Cả ở nhà chính. Đến nửa đêm ông Lý lại thấy đồng chí lại ngủ với bà Hai ở cây rơm, ngủ với bà Cả ở nhà ngang, ngủ với bà Ba ở nhà chính. Tưởng thế là xong, vẫn không, đến canh ba ông Lý lại thấy đồng chí ngủ một lúc cả ba bà trong nhà chính, vừa ngủ vừa hú hét kinh người.

Nhờ có núp rình Lý trưởng làng Trung mới phát hiện ra: Đêm đêm khi ông Lý ngủ với bà Cả ở nhà ngang đồng chí ngủ với bà Ba ở cây rơm; ông Lý ngủ với bà Hai ở cây rơm đồng chí ngủ với bà Cả ở nhà chính; ông Lý ngủ với bà Ba ở nhà chính đồng chí ngủ với bà Hai ở nhà ngang. Những lúc ông Lý đi vắng dĩ nhiên đồng chí ngủ một lúc cả ba bà ở chỗ nào tùy thích. Đó là nguyên lý hủ hóa hình tam giác của đồng chí Đội trưởng. Lần đầu tiên chứng kiến nguyên lý đó, Lý trưởng làng Trung khẳng định đồng chí Đội trưởng có con cu thiên tài, khắp thiên hạ không ai bì kịp.

Lý trưởng làng Trung thủng thẳng bước vào nhà chính, vỗ vỗ mông đồng chí Đội trưởng. Thằng ni khá thiệt bay, nhất mi đó! Ông Lý xuýt xoa khen. Lời khen thành thực đã bị đồng chí Đội trưởng đáp lại bằng cú đạp thẳng vào ngực. Ông Lý ngã bật ngửa, đập đầu vào cối đá, vỡ sọ chết không kịp ngáp. Đồng chí Đội trưởng chạy ra khỏi nhà, chạy thẳng lên chiến khu Đá Mài, căn cứ địa của Việt Minh, mau chóng gia nhập vào đội ngũ diệt ác trừ gian, tiếp tục cầm dao phay càn quét khắp huyện nhà. Nhờ đó đồng chí nổi tiếng khắp Chiến khu. Nếu chịu khó học bổ túc văn hóa cho xong lớp 3 và con cu của đồng chí không thuộc diện thiên tài, đồng chí đừng say đắm chuyện gái gú quá đáng, chắc Đội trưởng đã làm to lắm rồi, đâu chỉ là anh đội trưởng Đội cải cách.

*

Đồng chí Đội trưởng nghiện thuốc lào rất nặng. Hệt như nghiện thuốc phiện, khi lên cơn đồng chí phát cuồng rất kinh, có cảm tưởng nếu không có thuốc lào đồng chí sẽ chết bất đắc kì tử. Luôn luôn trong tay đồng chí cái điếu cày, kể cả khi đi xia. Gần hai năm đồng chí về Thị trấn Kô Long thực hiện cuộc cải cách, tức cuộc cách mạng long trời lở đất, dân chúng đã biết đồng chí nghiện thuốc lào ra làm sao. Đúng là có một không hai, thiên hạ đồn đại quả không sai.

Đồng chí Đội trưởng đã cho hơn một vạn dân Kô Long biết, đồng chí không nghiện để mà nghiện. Người sang làm gì cũng phải chứa đựng nhiều ẩn ý sang trọng. Cứ nhìn ông trưởng giả trong kịch Mô-li-e thì rõ. Hồi này dân Kô Long hay tán tụng vở kịch Trưởng giả học làm sang, Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ vừa dịch cho Đội văn nghệ tuyên truyền xung kích dàn dựng. Trong kịch có đoạn ông trưởng giả quát gia nhân đem cái ghế ra cho ông ta ngồi nói chuyện: “Đem cái phương tiện ngôn ngữ ra cho ta!”. Người sang phải nói vậy chứ. Đồng chí Đội trưởng thích lắm, quyết định lấy cái điếu cày làm phương tiện ngôn ngữ cho đồng chí.

Một phát biểu của Đội trưởng luôn luôn được chia làm ba giai đoạn, luôn luôn như thế mỗi khi đồng chí nói chuyện với quần chúng.

Đầu tiên là giai đoạn thông nõ. Đội trưởng ngồi xoi nõ rất kĩ. Xoi đi rồi xoi lại, vừa nói vừa xoi, Đội trưởng bắt người ta chú ý bằng đôi ba câu vu vơ thỉnh thoảng cất lên rồi im bặt, thay vào đó là cái nhìn lừ lừ vào cử tọa, cho biết cái điều đồng chí muốn nói chưa được nói ra đâu. Đội trưởng gằm mặt xoi nõ không một lần ngẩng lên. Im lặng đến ngạt thở kéo dài chừng năm phút, bây giờ đồng chí mới ngẩng mặt lên, giai đoạn thông nõ kết thúc.

Kế đến là giai đoạn châm đóm. Giai đoạn này lắm khi diễn ra rất lâu. Đội trưởng cầm cái đóm nói miết, nói cho đến khi lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói, lại lửa tắt, lại châm đóm, lại nói... có khi hơn nửa giờ.

Cuối cùng là giai đoạn đập điếu. Giai đoạn này mở đầu bằng tiếng rít điếu cày vang lên như một tràng liên thanh, Đội trưởng ngửa cổ khoan khoái để cho khói thuốc cuồn cuộn tuôn ra cho bằng hết. Đồng chí súc ngụm nước, nhổ cái toẹt xuống sân đình. Rứa đo! Tiếng rứa đo cao vói nhói óc kết thúc ba giai đoạn thuốc lào là ngôn ngữ khai đao của đồng chí Đội trưởng. Một cái điếu cày sắp bị đập vỡ tan.

Khắp Thị trấn không ai hút thuốc lào, đấy là thứ thuốc dành cho dân nghiện xứ Bắc, cả tỉnh chỉ độc nhất một hàng thuốc lào ở Thị xã Ô Lệ, cách Thị trấn Kô Long bốn chục cây số. Cứ hai ngày ba lại đạp xe vượt bốn chục cây số đường trường mua cho Đội trưởng hai lạng thuốc. Chỉ mua đúng hai lạng không hơn, nếu quá đi sẽ bị đồng chí phê bình làm lãng phí của cải của nhân dân. Chẳng có nhân dân nào cả, tiền túi của ba. Ấy là Đội trưởng thích hành Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ. Đội trưởng giải thích với anh em trong Đội cải cách, nói đó là biện pháp thử thách tinh thần cách mạng của Phạm Vũ, một kẻ xuất thân không lấy gì tốt đẹp cho lắm.

Trong các cuộc họp đội thường kì, đêm nào cũng phải họp gọi là họp thường kì, lẽ thường ba không được dự, đồng chí Đội trưởng hay kể cách đây 23 năm chính cha của đồng chí là một trong sáu phu kiệu è cổ khiêng kẻ đỗ đầu diplome của thực dân Pháp bẩn thỉu đi bộ bốn chục cây số đường trường, từ Thị xã Ô Lệ về Thị trấn Kô Long, hai bên đường đầy những bọn ngu xuẩn chào đón. Ai nghe chuyện đó cũng hiểu vì sao đồng chí Đội trưởng muốn đích thân Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ phải đi mua thuốc lào cho đồng chí, không được nhờ bất kì ai mua hộ, dù Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ có hơn một vạn hai ngàn quần chúng trong tay.

Sổ tay của đồng chí Đội trưởng chép trang trọng, có đóng khung bằng mực đỏ, lời giáo huấn của Hồ Chủ Tịch: "Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình là cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng, mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì".

Đồng chí Đội trưởng vận dụng giáo huấn của Hồ Chủ Tịch rất sáng tạo. Không đọc một hơi hoặc học thuộc lòng rồi nhắc lại một hơi như một số người, đồng chí trích đọc từng câu khác nhau trong các cuộc họp khác nhau ở các cử tọa khác nhau. Hôm nay cuộc họp có mặt Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ, đồng chí Đội trưởng mở sổ tay trịnh trọng đọc: “Hiện nay chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí.” Đồng chí ném cái nhìn vu vơ xuống cử tọa, đủ lạnh gáy hết lượt. Rứa đo! Nghe rõ không các đồng chí? Đồng chí cất giọng cao vói nhói óc. Ba giật mình phọt cả rắm.

Hôm sau cuộc họp vắng mặt Chủ tịch Thị trấn Phạm Vũ nhưng có đẩy đủ các cộng sự của ông, đồng chí Đội trưởng mở sổ tay trịnh trọng đọc: “Họ tự cho mình là cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng, mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền giáo dục quần chúng.” Đồng chí quét cái nhìn sắc lẹm về chỗ ba vẫn ngồi, nhếch mép cười bí hiểm. Rứa đo! Nghe rõ không các đồng chí? Giọng nhói óc của đồng chí vói ngược lên lạnh cả xương sống.

Hôm sau nữa, không có mặt ba, các cộng sự của ông cũng không có nốt, đồng chí Đội trưởng mở sổ tay trịnh trọng đọc: “Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì". Đồng chí cười khơ khơ, nhổ toẹt nước bọt một cái lại cười khơ khơ. Rứa đo! Nghe rõ không các đồng chí? Tiếng cười khơ khơ lẫn trong giọng nói cao vói nhói óc của đồng chí Đội trưởng, về sau được hết thảy cán bộ Thị trấn Kô Long gọi đó là tiếng cười rền vang tính giai cấp.

*

Cứ hai ngày một lần Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ phải đạp xe vào Thị xã Ô Lệ mua thuốc lào cho đồng chí Đội trưởng. Nếu Đội trưởng bắt được Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ nhờ ai đó mua thuốc lào thay mình, ông sẽ bị đồng chí cảnh cáo là lợi dụng quần chúng để tư lợi. Nếu Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ giở trò tháu cáy mua sẵn cả ba lô thuốc lào rồi đưa từng hai lạng một thì nguy cơ dao kề cổ là cái chắc, vào mùa đấu tố tội thiếu trung thực có thể ngang với tội phản quốc.

Ba biết rất rõ điều đó, theo cách mạng từ năm mười chín tuổi ông biết quá rõ lực lượng cầm dao phay theo Cách mạng, không thể đùa với đám này được. Để yên tâm ăn ngon ngủ yên với lực lượng cầm dao phay, tốt nhất răm rắp làm theo họ, hai lạng thuốc lào là hai lạng thuốc lào, cấm cãi. Vốn dĩ là người cẩn thận, ba đã cân đi cân lại với các loại cân khác nhau để biết chắc là đúng hai lạng trước khi mang về cho đồng chí Đội trưởng. Chưa khi nào đồng chí cân lại, chỉ cần cầm gói thuốc lào tung nhẹ, nhìn xói vào mắt ba hỏi như đùa, ri có đúng hai lạng không hè? Thế cũng đủ cho tóc gáy ba dựng ngược.

Việc thứ hai còn khốn nạn hơn việc thứ nhất, ấy là ba tôi phải liên miên làm điếu cày cho đồng chí Đội trưởng. Kĩ nghệ làm điếu cày ba học được từ thủa ở chiến khu Đá Mài khi ông may mắn sống cùng lán với các cán bộ miền Bắc, đã được đồng chí Đội trưởng phát hiện và tận dụng triệt để. Nếu ba không khoe với đồng chí Đội trưởng về khả năng chế tạo điếu cày có một không hai của mình, đặc biệt kĩ nghệ làm nõ điếu bằng gỗ cây mưng đượm khói và kêu cực to, thì đồng chí Đội trưởng sẽ không một vài ngày đập vỡ một điếu cày, thậm chí có ngày đồng chí điên tiết đập vỡ hai ba cái liền, nhất là thời kì xử bắn liên miên những tên phản động.

Đồng chí Đội trưởng đã phát minh ra lệnh xử bắn bằng cách đập vỡ điếu cày, từ thời trung cổ đến giờ tuyệt không ai nghĩ ra. Đài truyền thanh huyện phát đi phát lại 8 lần bài: “Lập trường giai cấp qua ba giai đoạn thuốc lào của một Đội trưởng” ca ngợi đồng chí Đội trưởng với lời lẽ trang trọng và hào hứng. Về sau được báo tỉnh đăng ở trang nhất, vị trí thường đăng xã luận. Dân Kô Long ai cũng đọc bài báo này. Được báo tỉnh đài huyện nêu gương, đồng chí Đội trưởng lấy làm đắc ý lắm.

Đình làng Kô Long, nơi Đội cải cách vẫn đem bọn phản động ra xử án, có đăng hai thứ rất hấp dẫn trẻ con. Tụi trẻ thường tụ tập ở đây tròn xoe mắt ngắm nghía ngưỡng mộ. Tường nhà hữu vu có đăng bài thơ của nhà thơ Trần Hữu Thung:

Nông dân đã nói là làm
Đã đi là đến, đã bàn là thông
Đã quyết là quyết một lòng
Đã phát là động đã vùng là lên
Đã lật, lật dưới lên trên
Đã chuyển là chuyển bốn bên chân trời.

Lũ trẻ cãi nhau ỏm tỏi về câu “Đã lật, lật dưới lên trên”, đứa bảo lật thì lật dưới lên trên, ai ngu mà lật từ trên xuống dưới, lật thế để thua à!; đứa bảo ông nhà thơ nói phét đấy, nông dân toàn lật từ trên xuống dưới thôi.

Tường nhà tả vu có dựng “Mô hình ba giai đoạn điếu cày”: Mô hình to bằng hai chiếc chiếu. Lũ trẻ rất ngưỡng mộ mô hình này, chúng ngắm suốt ngày không biết chán.

Mô hình Ba giai đoạn điếu cày là sản phẩm của ba trên cương vị Chủ tịch thị trấn. Đồng chí Đội trưởng khiêm tốn không dại gì sai ba làm như vậy, đấy là lòng thành của ba, không phải chiêu trò nịnh bợ của ông, hoàn toàn không.

Khi mới xuất hiện trên giấy với vài nét vẽ nghoệch ngoạc mọi người tưởng ba đùa quá trớn, ai cũng sợ đồng chí Đội trưởng nổi giận. Ngờ đâu vừa nhìn thấy bản nháp Đội trưởng sướng đỏ mặt. Đồng chí vỗ vai ba ỡm ờ hỏi. Làm vậy cấp trên có cho mình thiếu khiêm tốn không? Ba hiểu ý khiêm tốn của Đội trưởng, ông khảng khái chứng minh là không. Ờ thì làm thử coi. Không được thì lấy vôi xóa đi, có chi mô. Đồng chí Đội trưởng khiêm nhường cười nhẹ không.

Ba cho tô vẽ kỳ khu, tường nhà tả vu rực rỡ một mô hình hoành tráng, ai xem cũng trầm trồ. Tới khi báo tỉnh chụp ảnh đưa lên một vạn hai dân Thị trấn nức nở hết lượt. Tờ báo đăng mô hình đó luôn ở trên giường đồng chí Đội trưởng, đồng chí ngắm nghía không biết chán, nằm vừa ngắm, vừa hút thuốc lào vừa ngắm, đè gái ra giường vừa đâm vừa ngắm, tới khi ngủ phải đắp tờ báo có mô hình lên mặt mới ngủ được ngon giấc.

Nửa thế kỉ sau dân Kô Long không ai quên Ba giai đoạn điếu cày của đồng chí Đội trưởng, có muốn quên cũng chẳng quên được. Những ai mục sở thị Ba giai đoạn điếu cày đều thấy mình quá may mắn, vạn kiếp sau chắc cũng không bao giờ lặp lại.

Chiếc bàn đã kê sẵn, trên đó luôn có sẵn cái điếu cày, bó đóm và gói thuốc lào Vĩnh Bảo. Tên phản động đã quì sẵn trước cái bàn kê sẵn giữa một ngàn quần chúng lúc nào cũng có sẵn. Đồng chí Đội trưởng thong thả bước ra giữa rạo rực tiếng hô muôn năm và đả đảo của hơn ngàn quần chúng nhiệt tình cách mạng lẫn với nhiệt tình tò mò. Đồng chí ngồi xuống thong thả thực hiện ba giai đoạn thuốc lào của mình.

Giai đoạn thông nõ. Đội trưởng lầm bầm đôi ba câu vu vơ chẳng ai nghe được. Thực tế đồng chí cũng chẳng cần ai nghe, nhưng cái nhìn lừ lừ vào tên phản động và cả ngàn quần chúng của đồng chí thì ai cũng phải nhìn thấy. Cái nhìn kết thúc giai đoạn thông nõ thật đáng sợ, bởi vì nó báo trước một cái chết sắp bắt đầu.

Giai đoạn châm đóm. Tất nhiên giai đoạn này diễn ra rất lâu. Đội trưởng châm đóm và nói, đầu tiên nói với tên phản động về tội trạng của hắn, sau đó nói với hơn ngàn quần chúng về tội trạng của hắn, rồi lại nói với người ghi biên bản về tội trạng của hắn, cuối cùng tuyên bố với quần chúng về tội trạng của hắn. Tóm lại tội trạng của hắn thế nào thì quần chúng nghe thế thôi chứ không cần biết, chỉ cần biết hắn là tên phản động và hắn đáng tội xử bắn. Thế là quá đủ.

Đội trưởng cầm cái đóm nói miết, đóm tắt. Đồng chí ngước lên, Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ vung tay hướng dẫn hơn ngàn quần chúng hô muôn năm và đả đảo. Đồng chí thong thả châm đóm, lại nói, lại đóm tắt. Đồng chí ngước lên, Chủ tịch thị trấn Phạm vũ vung tay lên hô muôn năm và đả đảo. Đồng chí lại châm đóm, lại nói, lại đóm tắt. Đồng chí lại ngước lên, Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ vung tay lên hô muôn năm và đả đảo. Đồng chí lại châm đóm, lại nói, lại đóm tắt. Đồng chí ngước lên, Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ vung tay lên hô muôn năm và đả đảo...Cuộc hành hình nhờ vậy thật rạo rực khí thế cách mạng, khó nơi nào sánh được.

Giai đoạn đập điếu. Tiếng rít điếu cày vang lên như một tràng liên thanh báo hiệu giai đoạn cuối cùng sắp hoàn thành. Đội trưởng ngửa cổ khoan khoái để cho khói thuốc cuồn cuộn tuôn ra cho bằng hết. Đồng chí thong thả súc ngụm nước nhổ cái toẹt nói, rứa đo! Đồng chí dướn lên, mở to mắt nhìn tên phản động, tay nắm lấy cái điếu cày. Chậm rãi và khoan thai, đồng chí từ từ đưa cái điếu cày lên cao rồi đột ngột giáng cực mạnh xuống bàn, quát một tiếng như sấm.Tử hình! Cái điếu cày vỡ tan.

Thế là xong. Việc còn lại là của Chủ tịch thị trấn Phạm Vũ: chôn cất tử thi và cạy cục làm điếu cày khác cho đồng chí Đội trưởng. Việc nào cũng khẩn cấp. Chôn cất thật nhanh để chấm dứt ngay tiếng kêu la, khóc lóc của đám quần chúng chậm tiến, tức người nhà của kẻ vừa bị hành hình. Làm điếu cày cũng thật nhanh vì Đội trưởng không thể vắng nó quá một tiếng đồng hồ. Nhiệm vụ vẻ vang của ba chỉ có thế.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét